Những rắc rối phát sinh khi luật cho phép mang thai hộ

13:47, 26/11/2013
|

(VnMedia) - Đẻ thuê đội lốt mang thai hộ; đẻ xong không giao con cho người nhờ mang thai; đẻ sinh 2, sinh 3 nhưng người nhờ chỉ nhận... 1 trẻ; đứa con do mang thai hộ bị tật nguyền và người nhờ mang thai từ chối nhận... là một số những rắc rối có thể phát sinh khi luật cho phép mang thai hộ...

Sáng (26/11), Quốc hội thảo luận tại hội trường về dự án Luật hôn nhân và gia đình (sửa đổi). Trao đổi với báo chí bên lề Quốc hội về quy định mang thai hộ vì lý do nhân đạo, Viện trưởng Viện nghiên cứu lập pháp của Quốc hội Đinh Xuân Thảo e ngại quy định này có thể bị lợi dụng để  thương mại.

Ảnh minh họa

TS Đinh Xuân Thảo


Theo Quy định tại điều 63 của Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi), mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.

Theo TS Đinh Xuân Thảo, Luật lần này chỉ cho mang thai hộ vì lý do nhân đạo. Tuy nhiên, người mang thai giúp cũng cần được nghỉ ngơi, bồi dưỡng, nhưng không được lợi dụng để thương mại và đó không phải là một hợp đồng, nếu ngã giá bao nhiêu tiền, vì mục đích thương mại sẽ bị cấm.
 
“Cái khó ở đây là chúng ta hướng tới mục đích nhân đạo khi cho phép mang thai hộ, nhưng khi mở ra thì người ta có thể lợi dụng để làm những điều sai trái, vậy thì phải tính tới các điều kiện để kiểm soát ngăn chặn. Làm thế nào để kiểm soát được đúng là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là rất khó.” – ông Thảo băn khoăn.
 
TS Đinh Xuân Thảo cũng e ngại rằng ngay cả trường hợp đúng là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, nhưng sau khi đẻ xong, người mang thai hộ lại nhận luôn đứa con do mình đẻ ra và không trả lại cho những người nhờ mang thai hộ thì sẽ xử lý như thế nào?
 
“Chúng ta chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, nghĩa là giúp nhau thôi, chứ không phải là hợp đồng thương mại gì, vì thế cũng rất khó xử lý nếu có tranh chấp.” – ông Thảo phân tích.
 
Trường hợp thứ hai được ông Đinh Xuân Thảo nêu ra, đó là trường hợp thai nhi phát triển không bình thường.
 
“Sau khi sinh ra, những người nhờ mang thai không nhận đứa bé đó thì sao? Hậu quả đó ai sẽ gánh chịu? Hay có những trường hợp sinh đôi, hoặc sinh ba, mà những người nhờ mang thai chỉ muốn nhận một đứa trẻ, còn lại thì tính sao? Nói tóm lại là mở ra cho phép mang thai hộ vì nhân đạo thì nhìn ở khía cạnh tích cực tốt thật, nhưng vì có nhiều điểm phát sinh như vậy nên cũng phải cân nhắc cẩn trọng, tôi nghĩ là không đơn giản.”  TS Đinh Xuân thảo nêu lên những ví dụ rất có thể xảy ra trong quá trình mang thai hộ.
 
Theo ông Đinh Xuân Thảo, để kiểm soát nhân đạo hay không nhân đạo là vấn đề rất khó,. “Nếu người mang thai hộ có quan hệ gia đình họ hàng với những người nhờ mang thai hộ thì sẽ đảm bảo hơn, chứ nhờ một người xa lắc xa lơ hoặc một người không có quan hệ gì cả mà bảo là “hộ” thì khó rồi. Nó sẽ rất dễ gắn tính thương mại vào đó.” – TS Đinh Xuân Thảo nói.
 
Vì vậy, theo ông, Chính phủ cần có những quy định cụ thể hơn để ràng buộc: “Ví dụ như để mang thai hộ không mang tiếng là thương mại, anh cho phép người ta được nhận thù lao đến mức độ nào trong môi trường sức khỏe người ta cho  phép, việc nó là chính đáng thì phải được chứ, nhưng cơ quan nhà nước cần đứng ra làm trung gian để xác định. Bên cạnh đó, có những trường hợp đôi vợ chồng nhờ mang thai họ có điều kiện kinh tế thì cho bao nhiêu đấy là việc của người ta, cũng không có gì coi là thương mại. Còn nếu mà bên mang thai hộ ra giá là không được.”  
 
Theo ông Thảo, quy định mỗi người chỉ được mang thai hộ 1 lần có thể giám sát được vì những trường hợp mang thai  hộ đều có kiểm soát về y tế. Ngoài ra, cần có thêm một điểm liên quan nữa là trong sổ hộ tịch phải ghi rõ với trường hợp mang thai hộ để cơ quan chức năng kiểm soát được việc này.
 
“Nước ngoài họ cũng có quy định, người nhận nuôi ra điều kiện với bố mẹ đứa trẻ là cắt đứt mọi mối quan hệ. Khi ký kết với Việt Nam thì cũng có nước họ ra điều kiện như thế, nhưng mình thì sợ chẳng may đứa trẻ bị ngược đãi, quyền lợi của trẻ không được bảo đảm thì làm sao có thể đưa đứa trẻ trở về với bố mẹ của nó, cho nên vấn đề này phải tính toán kỹ. Hay cũng có thể quy định không cho quan hệ qua lại một cách trực tiếp khi đứa trẻ chưa đủ 18 tuổi, còn sau khi đủ tuổi công dân rồi thì nó có quyền được biết về người mang nặng” TS Đinh Xuân Thảo góp ý.

“Điều 63c. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
 
1. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải tuân thủ các điều kiện được quy định trong pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
 
2. Vợ chồng có quyền nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ khi có đủ các điều kiện sau đây:
 
a) Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
 
b) Vợ chồng chưa có con chung;
 
c) Việc mang thai hộ phải được thực hiện qua việc thụ tinh trong ống nghiệm bằng sự kết hợp giữa noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng;
 
d) Người được nhờ mang thai hộ phải là người có quan hệ thân thích của vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp không có người thân thích hoặc có người thân thích nhưng không đủ điều kiện để mang thai hộ thì vợ chồng có thể nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ.
 
đ) Trong trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có hôn nhân thì phải có thỏa thuận bằng văn bản của người chồng đồng ý cho vợ mình thực hiện việc mang thai hộ.
“Điều 63d. Quyền, nghĩa vụ của người mang thai hộ
 
1. Người mang thai hộ, vợ chồng người mang thai hộ (sau đây gọi là bên mang thai hộ) có quyền, nghĩa vụ như cha mẹ của đứa trẻ từ khi mang thai cho đến khi giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
 
2. Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe và sự phát triển của thai nhi phù hợp với quy định của Bộ Y tế về chăm sóc sức khỏe sinh sản, người phụ nữ mang thai hộ có quyền quyết định về việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai.”
78. Bổ sung Điều 63 đ như sau:
 
“Điều 63đ. Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ
 
1. Bên nhờ mang thai hộ và con sinh ra từ việc mang thai hộ có đầy đủ quyền, nghĩa vụ của cha, mẹ và con.
 
2. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.”
79. Bổ sung Điều 63 e như sau:
 
“Điều 63e. Tôn trọng, bảo vệ quyền về bí mật đời tư, các quyền riêng tư khác, danh dự, nhân phẩm, uy tín trong quan hệ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
 
Các bên trong quan hệ sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có quyền được tôn trọng, bảo vệ về bí mật đời tư, các quyền riêng tư khác, danh dự, nhân phẩm, uy tín.”

Điều 63 g: Giải quyết tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ
 

1. Tòa án là cơ quan có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
 
2. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ không còn mà bên mang thai hộ không tự nguyện nhận con thì Tòa án chỉ định người giám hộ cho con theo quy định của Bộ luật dân sự.
 
Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên mang thai hộ không tự nguyện chăm sóc, nuôi dưỡng con thì Tòa án chỉ định người giám hộ cho con. Theo yêu cầu của người giám hộ, bên nhờ mang thai hộ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho con.”



Ngọc Quỳnh

Ý kiến bạn đọc