Vụ cướp bánh mì ăn vì đói: Xử lý hình sự là quá máy móc

13:56, 09/05/2016
|

(VnMedia) - Trên đường đi xin việc, Tuấn và Tân vì đói bụng nên đã vào tiệm tạp hóa cướp bánh mì cùng một số đồ ăn vặt rồi bỏ chạy. Sau đó hai thanh niên này bị bắt và bị đã truy tố tội Cướp tài sản. Quan điểm luật sư cho rằng, việc truy tố này là quá máy móc...

Dự kiến ngày 17/5, TAND quận Thủ Đức (TP HCM) sẽ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm với 2 bị cáo Nguyễn Hoàng Tuấn và Ôn Thành Tân (cùng 18 tuổi, ngụ TP HCM) phạm tội Cướp tài sản.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Theo cáo trạng, khoảng 22h ngày 17/10/2015, Tuấn gặp Tân tại một tiệm Internet ở phường Tăng Nhơn Phú B (quận 9). 10h ngày 18/10/2015, Tân lấy xe máy hiệu Wave chở Tuấn đến một quán nhậu ở quận Thủ Đức để xin làm việc.

Trên đường đi, 2 thanh niên đói bụng nhưng không còn tiền nên nảy sinh ý định cướp bánh mì ăn. Tân tấp xe vào tiệm tạp hóa bên đường Tô Vĩnh Diện (quận Thủ Đức), Tuấn xuống hỏi mua 2 bịch chuối sấy, một ổ bánh mì ngọt, đậu phộng rang muối và 3 bịch me trộn đường.

Sau đó, Tuấn giật lấy gói thức ăn từ tay chủ quán rồi lên xe, Tân tăng ga bỏ chạy. Chủ quán tạp hóa truy hô và cùng người dân đuổi theo, bắt giữ 2 thanh niên cùng tang vật.

Tại cơ quan điều tra, Tân và Tuấn đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội. VKSND quận Thủ Đức nhận thấy hành vi của 2 thanh niên này thuộc trường hợp dùng thủ đoạn nguy hiểm nên đã truy tố tội Cướp tài sản theo điểm d, khoản 2, Điều 136 Bộ luật hình sự với khung hình phạt từ 3 - 10 năm tù.

Về vụ việc trên, quan điểm điểm của luật sư Nguyễn Anh Thơm (Đoàn luật sư Hà Nội) cho rằng: hành vi phạm tội của 2 bị can Nguyễn Hoàng Tuấn và Ôn Thành Tân có dấu hiệu phạm Tội cướp giật tài sản theo khoản 1 Điều 136 Bộ luật hình sự (khung hình phạt tù một năm đến năm năm) là có căn cứ , đúng pháp luật và với bản chất hành vi phạm tội đã gây ra. Bởi lẽ:

Căn cứ Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 hướng dẫn áp dụng một số qui định tại Chương XIV “Các tội xâm phạm sở hữu” của Bộ luật hình sự năm 1999 có qui định "Dùng thủ đoạn nguy hiểm" quy định tại điểm d khoản 2 Điều 136 BLHS là dùng thủ đoạn để cướp giật tài sản mà nguy hiểm đến tính mạng, sức khoẻ của người bị hại hoặc của người khác như dùng xe mô tô, xe máy để thực hiện việc cướp giật tài sản; cướp giật của người đang đi mô tô, xe máy...”

Nếu kết quả điều tra xác định Tân là người điều khiển xe máy vào sát vào tiệm tạp hóa bên đường Tô Vĩnh Diện (quận Thủ Đức), Tuấn xuống xe đi bộ vào hỏi mua 2 bịch chuối sấy, một ổ bánh mì ngọt, đậu phộng rang muối và 3 bịch me trộn đường. Sau đó, Tuấn giật lấy gói thức ăn từ tay chủ quán rồi chạy lên xe do Tân đang nổ máy rồi tăng ga bỏ chạy…

Như vậy, Tân và Tuấn không dùng chiếc xe máy này để thực hiện hành vi khi cướp giật tài sản. Chiếc xe máy này không phải là thủ đoạn nguy hiểm gây nguy hiểm đến tính mạng của người bán hàng. Nghĩa là chiếc xe máy không có mối quan hệ nhân quả với hậu quả chiếm đoạt tài sản. Đây chỉ là phương tiện để 02 đối tượng bỏ chạy sau khi cướp giật tài sản.

Các cơ quan tố tụng đã xác định chiếc xe máy mà đối tượng Tân dùng để bỏ chạy sau khi đi xuống xe đi bộ vào vờ hỏi mua bánh mỳ để cướp giật là “dùng thủ đoạn nguy hiểm” theo điểm d khoản 2 điều 136 BLHS là không đúng với các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự.

Về quan điểm xử lý hình sự 2 đối tượng về Tội cướp giật tài sản: Theo luật sư Thơm, về mặt hình thức, hành vi của 02 đối tượng đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Nhưng chúng ta không nên máy móc xử lý hình sự trong vụ việc này. Khi phạm tội cả 02 đối tượng đang ở lứa tuổi vị thành niên, giá trị chiếm đoạt không đáng kể.

Căn cứ khoản 4, Điều 8 Bộ luật hình sự “Những hành vi tuy có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội không đáng kể, thì không phải là tội phạm và được xử lý bằng các biện pháp khác”

Xét về tính chất nguy hiểm của hành vi thì luật sư thấy rằng là không đáng kể. Hành vi phạm tội của 02 đối tượng xuất phát từ việc bị đói khát trên đường đi xin việc làm và không có tiền nên trong lúc túng quẫn đã đi cướp giật bánh mỳ để ăn. Kết quả định giá tài sản chiếm đoạt chỉ có 45.000 đồng. Đây là giá trị tài sản chiếm đoạt không đáng kể. Trong khi cả xã hội đang có những phong trào nước uống, bánh mỳ, suất ăn,… miễn phí để nhằm mục đích chia sẻ những khó khăn cho một số người có hoàn cảnh khó khăn.

Điều 136. Tội cướp giật tài sản

1. Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm:

a) Có tổ chức;

b) Có tính chất chuyên nghiệp;

c) Tái phạm nguy hiểm;

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm;

đ) Hành hung để tẩu thoát;

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 11% đến 30%;

g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu đồng;

h) Gây hậu quả nghiêm trọng.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 31% đến 60%;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu đồng;

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương tật từ 61% trở lên hoặc làm  chết người;

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên;

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.

 


Ý kiến bạn đọc