Bệnh glôcôm có nguy hiểm không?

10:27, 27/01/2016
|

(VnMedia) - Glôcôm là một nhóm bệnh lý trong đó thần kinh thị giác bị tổn hại, có thể dẫn tới giảm thị lực hoặc mù lòa. Tuy nhiên nếu được phát hiện và điều trị sớm ta vẫn có thể bảo tồn được thị lực.

Bác sỹ Hoàng Cương, Bệnh viện Mắt Trung ương cho biết, ở thể cấp tính, nếu được phát hiện và điều trị sớm, bệnh nhân có thể phục hồi gần nguyên trạng thị lực trước kia. Ngược lại với thể mạn tính bệnh nhân không thể lấy lại được những gì đã mất mà chỉ có thể giảm thiểu tổn hại. Nếu điều trị sớm thì có thể duy trì thị lực trung tâm tốt trong một thời gian dài hoặc suốt đời.

Thần kinh thị giác của người mắc bệnh glôcôm bị tổn thương như thế nào?

Nhãn cầu cần một áp lực đủ mạnh (nhãn áp) để giữ hình dạng của nó cũng như để duy trì chức năng nhìn. Ở một số đông người bị glôcôm, áp lực nội nhãn cao sẽ gây tổn hại thần kinh thị giác. Số còn lại áp lực của con mắt có thể bình thường nhưng thần kinh thị giác bị tổn thương do chính bản thân nó hoặc do vấn đề tưới máu, trong đó huyết áp giữ vai trò quan trọng.

Nhãn áp được quyết định bởi thể tích thủy dich tiết ra bởi thể mi (nằm ngay sau mống mắt). Thủy dịch sau đó sẽ luân chuyển qua lỗ con ngươi, qua một ngách hẹp gọi là góc tiền phòng rồi vào tuần hoàn chung qua một kênh dẫn lưu. Sự mất cân bằng giữa việc sản xuất và luân chuyển thủy dịch sẽ làm nhãn áp (áp lực bên trong nhãn cầu) tăng lên.

Biểu hiện của bệnh glôcôm

Glôcôm có 4 thể bệnh chính:

- Glôcôm mạn tính: đây là quá trình mạn tính của việc dẫn lưu thủy dịch bị cản trở qua nhiều năm tháng, gây tổn hại thị lực và thị trường mạn tính, không đau đớn và bất khả hồi.

- Glôcôm cấp tính: phổ biến ở các nước phương Đông, do tắc nghẽn dẫn lưu thủy dịch cấp tính, gây những cơn đau nhức dữ dội và giảm thị lực trầm trọng.

- Glôcôm thứ phát: là tình trạng tăng nhãn áp do các bệnh khác tại mắt như viêm màng bồ đào, một số bệnh lý của thể thủy tinh…

- Glôcôm bẩm sinh: xảy ở trẻ có bất thường ở hệ sản xuất và dẫn lưu thủy dịch, thường đi kèm với một số dị dạng của hệ thống tâm thần kinh và tim mạch.

Tùy vào loại glôcôm mà cách biểu hiện, diễn tiến, phương pháp chẩn đoán và điều trị sẽ khác nhau.

Glôcôm mạn tính thường gặp trên người phương tây, đặc biệt là người di cư da màu, tuổi từ 40 trở lên. Cơ địa viễn thị, đái tháo đường, gia đình có người bị bệnh cũng làm căn bệnh này dễ phát triển. Do không có triệu chứng nên việc phát hiện bệnh chủ yếu là nhờ khám sàng lọc. Việc mất dần trường nhìn của mắt (khuyết hay co hẹp thị trường) là minh chứng bệnh đã phát tác. Bên cạnh đó việc đo nhãn áp có hệ thống, khảo sát kỹ càng tình trạng của thị thần kinh cũng là những biện pháp giúp chẩn đoán dương tính thể bệnh này.

Glôcôm cấp tính: ngược lại với thể mạn tính vừa nêu, bệnh nhân sẽ có đau nhức dữ dội do áp lực nội nhãn bị tăng cao đột ngột. Mắt đỏ nhiều , giảm thị lưc mạnh. Một số bệnh nhân có nôn mửa và nhìn đèn thấy quầng sắc màu ở giai đoạn sớm. Ở thể nhẹ, bệnh chỉ thể hiện bằng nhìn đèn có quầng xanh đỏ, hay xảy ra vào buổi tối. Nếu ở giai đoạn này bạn nên đi khám bác sĩ mắt sớm, làm thêm một số khám nghiệm bổ xung để có chẩn đoán xác định.

Các khám nghiệm để chẩn đoán bệnh glôcôm

- Thử thị lực
- Đo thị trường
- Khám mắt có giãn đồng tử: nhờ thuốc giãn đồng tử các bác sĩ sẽ dùng các dụng cụ quang học có phóng đại để khám thị thần kinh, võng mạc và phát hiện các bệnh lý khác nếu có. Việc này sẽ khiến bệnh nhân nhìn mờ trong vài giờ.
- Đo áp lực mắt (nhãn áp)
- Đo thị trường (trường nhìn của mắt): rất quan trọng để chấn đoán glôcôm
- Đo độ dày của giác mạc

Cách điều trị bệnh glôcôm

Theo bác sỹ Hoàng Cương, phát hiện sớm, điều trị ngay lập tức là điều tối quan trọng để ngăn chặn tiến triển xấu của bệnh. Bệnh glôcôm có thể điều trị bằng thuốc men, laser, phẫu thuật kinh điển hoặc cải biên, phối hợp nhiều loại phẫu thuật…

Điều trị bằng thuốc: có rất nhiều loại thuốc uống, thuốc nhỏ, đa chất hoặc đơn chất. Mục đích chung của việc dùng thuốc là làm giảm áp lực nhãn cầu xuống mức an toàn. Việc dùng thuốc yêu cầu phải thường xuyên, đều đặn, có ý kiến của bác sĩ chuyên khoa. Một số thuốc có thể gây vài tác dụng phụ như đau đầu, bạc và rậm lông mi, đỏ mắt, cảm giác bỏng rát… Nếu có khó chịu bạn có thể nói với bác sĩ hay dược sĩ để đổi thuốc thế nhưng đừng bao giờ quên là phải dùng thuốc thường xuyên, kiên trì tránh quên hoặc bỏ điều trị.

Điều trị bằng laser: việc dùng tia laser chiếu từ bên ngoài để tạo hình vùng bè (laser trabeculoplasty) làm tăng khả năng dẫn lưu thủy dịch ra ngoài, giảm áp lực nội nhãn hữu hiệu. Đây là can thiệp không đau, chỉ cần bất động đầu và phối hợp tốt là được. Sau laser có thể phải dùng thêm một số thuốc giảm đau, chống viêm.

Các loại phẫu thuật: có thể được các bác sĩ chỉ định trong quá trình điều trị bệnh với mục đích tạo nên một đường dẫn lưu thủy dịch mới cho mắt, thay thế hoặc bổ xung cho các con đường cũ của “ cha sinh, mẹ đẻ”. Phẫu thuật phải tiến hành trong phòng mổ, sau mổ phải dùng thuốc kháng sinh và chống viêm trong vài tuần. Khoảng 60-80% bệnh nhân sẽ có được ngưỡng nhãn áp an toàn nhờ các phương pháp phẫu thuật. Các biến chứng sau phẫu thuật phải tính đến là đục thể thủy tinh sớm, viêm và nhiễm trùng, biến chứng của giác mạc và sẹo bọng, nhãn áp bị hạ quá thấp…

Phương pháp điều trị cho các thể glôcôm hiếm gặp còn lại là tổ hợp của các biện pháp vừa nên nhưng với hiệu quả thấp hơn nhiều. Đặc biệt với glôcôm thứ phát phải điều trị tốt bệnh gốc (bệnh gây tăng nhãn áp). Với glôcôm bẩm sinh việc hạ nhãn áp không phải là công việc chính mà là sửa chữa lại giải phẫu bất thường của mắt, chống nhược thị cho trẻ.

Lưu ý:

Nếu bạn đang điều trị bằng thuốc phải điều trị hàng ngày đều đặn. Nên khám sàng lọc glôcôm từ tuổi 40. Cứ 2 năm một lần nên đi khám mắt có nhỏ giãn đồng tử và soi đáy mắt. Với người có thân nhân bị glôcôm, bạn bị đái tháo đường thì nên khám với qui trình trên 1 năm/ 1 lần.


Ý kiến bạn đọc