(VnMedia) - Thảo luận về dự án Luật quản lý nợ công, đại biểu Hoàng Quang Hàm - Ủy viên thường trực Ủy ban Tài chính và Ngân sách của Quốc hội cho rằng, để quản lý chặt chẽ và hiệu quả nợ công thì Luật phải giải quyết được gốc rễ 3 vấn đề.
Đó là cần xác định phạm vi nợ công phù hợp; xác định tổ chức bộ máy, đầu mối quản lý nợ công hợp lý nhất, hiệu quả nhất và nhận diện được rủi ro nợ công, trong đó có cả rủi ro trực tiếp và cả rủi ro tiềm ẩn; xác định công cụ, biện pháp quản lý, xử lý rủi ro; đặc biệt là phải đảm bảo tinh thần của Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị là "đảm bảo dự phòng cho các rủi ro tiềm ẩn".
Đại biểu Hàm cho biết, ông đồng ý với quy định về phạm vị nợ công như dự thảo Luật và cũng như không tính vào nợ công những khoản: Nợ tự vay, tự trả của doanh nghiệp nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức kinh tế nhà nước; không tính nợ của ngân hàng nhà nước nhằm thực hiện chính sách tiền tệ; nợ phát sinh trong quá trình điều hành ngân sách... với các lý do đã nêu trong tờ trình của Chính phủ.
Tuy nhiên, ông Hàm không thống nhất với việc Luật không qui định nội dung giám sát các khoản vay, nợ không tính vào nợ công vì khi có rủi ro thì nhà nước hoặc ngân sách nhà nước vẫn phải gánh chịu các khoản nợ này.
“Không qui định trong Luật này thì qui định trong Luật nào cũng cần phải làm rõ. Hiện nay, các Luật liên quan không có các qui định để xử lý rủi ro của các khoản nợ này trên nguyên tắc không tăng gánh nặng cho nhà nước, không ảnh hưởng đến an toàn nợ công” - đại biểu Hàm cho biết.
Ông Hàm đưa ra ví dụ: Khi các đơn vị sự nghiệp công lập không trả được nợ tự vay, tự trả thì nhà nước buộc phải gánh thay để không ảnh hưởng đến các nhiệm vụ nhà nước giao cho các đơn vị này; hoặc nhà nước phải gánh nợ thay vì đây là các đơn vị của nhà nước và không có qui định các đơn vị này được phá sản, thực tế cũng không thể phá sản được.
“Nợ nước ngoài của doanh nghiệp nhà nước được tính vào nợ nước ngoài của quốc gia, nên cần phải có qui định trong Luật để giám sát và nhà nước phải có giải pháp mang tính chính sách đế quản trị rủi ro này” - ông Hàm đề nghị.
Đối với nội dung khác như nợ xây dựng cơ bản, nợ hoàn thuế giá trị gia tăng, nợ mang tính điều hành, theo đại biểu Hàm, cũng phải qui định rõ trong Luật này là phải xử lý dứt điểm trong năm ngân sách vì khi để lại sang năm sau sẽ tăng sức ép và làm hạn hẹp ngân sách năm sau, từ đó ảnh hướng đến bội chi, nợ công.
“Các khoản nợ nói trên, nếu không qui định rõ trong Luật các biện pháp giám sát và xử lý rủi ro thì phải cân nhắc đưa vào phạm vi nợ công, đặc biệt là nợ tự vay, tự trả của đơn vị sự nghiệp công lập; nợ điều hành nhưng không hoàn trả trong năm ngân sách vì khi rủi ro xảy ra, nhà nước hoặc ngân sách phải gánh các khoản nợ này" - đại biểu Hoàng Quang Hàm nêu rõ.
Chỉ một đầu mối quản lý nợ công
Thứ hai, về tổ chức bộ máy, đầu mối quản lý nợ công, theo đại biểu Hàm, để 3 cơ quan như hiện nay thì sẽ đỡ xáo trộn bộ máy và có thể phân định trách nhiệm rõ hơn, qui định việc phối hợp rõ hơn để quản lý nợ.
“Nhưng thực tế là sự phối hợp chưa bao giờ thông suốt, bức tranh nợ công phải lắp ghép từ nhiều mảnh nên không hoàn chỉnh, không kịp thời; ODA chưa bao giờ kiểm soát được, luôn vượt dự toán, đẩy bội chi, nợ công lên cao ngoài dự kiến; chưa gắn được trách nhiệm vay, phân bổ với trách nhiệm cân đối nguồn để trả nợ, trách nhiệm khi xảy ra lãng phí, thất thoát”- đại biểu Hàm phân tích rõ.
Theo đại biểu Hàm thì cần gắn được trách nhiệm vay, trách nhiệm phân bổ, trách nhiệm sử dụng với trách nhiệm cân đối nguồn và trách nhiệm trong thất thoát, lãng phí.
Hơn nữa, theo phân tích của ông Hàm thì khi gộp bộ phận quản lý nợ công của nhiều cơ quan về một cơ quan sẽ giảm được biên chế, tăng tính chuyên nghiệp của cán bộ, công chức. Việc gom quản lý nợ công về một đầu mối cũng sẽ tăng niềm tin và giảm phiền hà cho người cho vay do chỉ phải làm việc với một đầu mối, từ đó sẽ mang lại những lợi ích của chi phí vay, điều kiện vay. Đơn vị sử dụng vốn vay (nhất là ODA) cũng chỉ phải làm việc với một đầu mối thay vì rất nhiều đầu mối như hiện nay.
Ngoài ra, khi đưa toàn bộ danh mục nợ về một đầu mối sẽ nhanh chóng có được bức tranh tổng thể về nợ trong nước, nợ ngoài nước, nợ dài hạn, nợ ngắn hạn thay vì phải ghép nhiều mảnh ghép như hiện nay. Điều này sẽ phục vụ tốt hơn cho công tác phân tích nợ, giảm rủi ro của nợ, đồng thời đánh giá được tổng thể nhu cầu vay, có thể gộp các khoản vay nhỏ thành các khoản vay lớn, giảm các đầu mối tài chính trung gian, từ đó giảm chi phí vay.
Để nhận diện rủi ro và xử lý rủi ro nợ công, theo ông Hàm, thì mục tiêu quản lý không chỉ là các khoản nợ trong danh mục nợ thuộc phạm vi nợ công. Cần phải giám sát cả các khoản nợ ngoài phạm vi nợ công mà khi có rủi ro đối với các khoản nợ này sẽ làm ảnh hưởng đến an toàn nợ công.
“Cần phải qui định những nguyên tắc trong luật này để xử lý khi nợ công sát trần, khi lãi phải trả, tỷ giá, lạm phát ở mức cao, nguy hiểm... để bảo đảm an toàn nợ công” - ông Hàm nhấn mạnh.
Trả lời đại biểu về vấn đề này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, theo thông lệ quốc tế thì phạm vi nợ công bao gồm nghĩa vụ nợ trực tiếp của Chính phủ, bao gồm của cả Trung ương và địa phương và nghĩa vụ nợ dự phòng. Các nghĩa vụ nợ trực tiếp là các khoản nợ mà Chính phủ là chủ thể vay và chịu trách nhiệm trả nợ trực tiếp từ ngân sách nhà nước. Các nghĩa vụ nợ dự phòng là các khoản nợ mà Chính phủ không phải là chủ thể đi vay nhưng có cam kết thực hiện nghĩa vụ trả nợ trong trường hợp chủ thể đi vay mất khả năng trả nợ một phần hoặc toàn bộ, tức là bảo lãnh cho vay lại. “Cho nên chúng tôi kế thừa vấn đề này” - Bộ trưởng giải thích.
Về nợ doanh nghiệp Nhà nước, Bộ trưởng cho biết, phạm vi nợ công đã tính vào khoản doanh nghiệp Nhà nước vay lại vốn vay nước ngoài của Chính phủ và các khoản vay của doanh nghiệp Nhà nước được Chính phủ bảo lãnh.
Đối với các khoản vay theo cơ chế tự vay, tự trả, doanh nghiệp Nhà nước là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoạt động bình đẳng với các doanh nghiệp khác theo quy định của Luật Doanh nghiệp, quản lý theo Luật Quản lý đầu tư kinh doanh vốn Nhà nước tại doanh nghiệp.
Theo hướng dẫn của Ngân hàng thế giới thì tính nợ tự vay, tự trả của doanh nghiệp Nhà nước vào nợ công nếu thỏa mãn đồng thời ba điều kiện: Thứ nhất, Chính phủ sở hữu 50% vốn của doanh nghiệp; Thứ hai, hoạt động thu chi của doanh nghiệp Nhà nước được kết cấu trong dự toán ngân sách hàng năm; Thứ ba, Chính phủ cam kết trả nợ thay trong trường hợp các doanh nghiệp mất khả năng trả nợ.
“Ngoài ra, qua khảo sát 40 nước và nhóm nước thì hầu hết các nước đều không tính nợ doanh nghiệp nhà nước vào nợ công. Về nợ của các đơn vị sự nghiệp công lập, các khoản Chính phủ vay về cho vay lại tới các đơn vị sự nghiệp công lập như bệnh viện, trường học đã được tính vào nợ của Chính phủ” - Bộ trưởng thông tin.
Về chỉ tiêu an toàn nợ công, Bộ trưởng nói ngắn gọn: “Chúng tôi tiếp thu ý kiến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội, chúng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu và điều chỉnh lại theo hướng Quốc hội quyết định các chỉ tiêu này trong kế hoạch tài chính 5 năm".
Về đề xuất 1 đầu mối quản lý nợ công, ông Dũng cho biết, nếu Chính phủ thống nhất thì Bộ cũng đồng ý. Ông cũng phân trần: “Một đầu mối ở đây, chúng tôi không nói là Bộ Tài chính mà về đâu cũng được, về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, về Ngân hàng Nhà nước cũng được, thậm chí về văn phòng Chính phủ cũng được, do Chính phủ phân công. Nhưng kinh nghiệm tổng kết các nước thì phần lớn là về Bộ Tài chính".
Xuân Hưng
Ý kiến bạn đọc