Ngoài một chương quy định về hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài (Chương X) tại Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000, thì vấn đề này còn được điều chỉnh tại 2 nghị định, 2 thông tư liên tịch và nhiều văn bản QPPL liên quan khác... Tuy nhiên, hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài đã nảy sinh những vấn đề ngoài sự mong muốn của các nhà làm luật, cũng như cơ quan quản lý.
Điều kiện kết hôn với người nước ngoài; từ chối đăng ký kết hôn; về chức năng tư vấn, môi giới hôn nhân của các trung tâm hỗ trợ kết hôn... là trục chính xoay quanh câu chuyện hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Đây cũng là những quy định nhận được nhiều ý kiến góp ý trong quá trình tổng kết 12 năm thực hiện Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
Theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10.7.2002 của Chính phủ thì việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài hoặc giữa người nước ngoài với nhau tại Việt Nam mà tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam, thì ngoài việc mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn; người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và Gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn.
Như vậy, quy định về điều kiện kết hôn đối với hôn nhân có yếu tố nước ngoài áp dụng tương tự như hôn nhân trong nước, không có quy định về các điều kiện đặc biệt khác. Thực tế này cho thấy, cần quy định chặt chẽ các điều kiện kết hôn với người nước ngoài, bổ sung một số điều kiện cần thiết như điều kiện về trình độ ngôn ngữ, về sức khỏe, đã trải qua lớp đào tạo về văn hóa hôn nhân, gia đình của nước ngoài...
Từ góc độ cải cách thủ tục hành chính, đại diện Sở Tư pháp TP Hà Nội cho rằng, việc nhiều cơ quan phối hợp, nhiều cấp tham gia giải quyết hồ sơ kết hôn có yếu tố nước ngoài đã dẫn đến tình trạng không rõ trách nhiệm, gây sự tùy tiện của từng cơ quan và đổ lỗi trách nhiệm cho nhau, cuối cùng người dân lại phải chờ đợi. Nhiều trường hợp để lấy được Đăng ký kết hôn, công dân phải mất 30 hoặc 50 ngày làm việc. Đó là chưa kể đến những quy định mang nặng tính hình thức như việc phỏng vấn trực tiếp tại trụ sở Sở Tư pháp đối với hai bên nam nữ để làm rõ sự tự nguyện. Thực tế, 100% công dân được hỏi đều trả lời họ tự nguyện và thường né tránh việc phỏng vấn nhất là người nước ngoài.
Từ thực tiễn áp dụng pháp luật cũng như kiến nghị của đại diện các Sở Tư pháp cho thấy, nhiều quy định liên quan đến hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài mang tính hình thức, thiên về quản lý nhà nước, chưa tạo điều kiện cho người dân. Không ít vấn đề dường như nằm ngoài tầm quản lý của các cơ quan chức năng (hoạt động của các trung tâm môi giới; cò môi giới hôn nhân…); hoặc vai trò của Nhà nước hết sức mờ nhạt, chưa hiệu quả (Trung tâm tư vấn, hỗ trợ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài). Như vậy, bên cạnh việc hoàn thiện thể chế thì rất cần sự đổi mới trong cách thức quản lý, điều hành những vấn đề liên quan đến hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài. Nhà nước muốn quản lý (dân cư, quốc tịch - gốc của những vấn đề về tài sản) thì cần nhìn nhận trên tinh thần cải cách hành chính, tạo thuận tiện cho người dân để người dân tham gia vào quan hệ quản lý hành chính - hộ tịch.
Tính đến hết tháng 6/2012 đã có trên 340.873 trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài hoặc với công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, thuộc trên 50 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau, trong đó nhiều nhất là Đài Loan, Hàn Quốc, Cộng hòa Liên bang Đức, Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Australia, Thụy Điển…
Ý kiến bạn đọc