Không gian xuân độc đáo của người Mường Phú Thọ

15:13, 22/02/2013
|

Trong tiết xuân ấm áp, lất phất mưa bay, tiếng trống hội thập thình, những làn điệu hát ví, hát giang mượt mà, ngân nga như níu bước mùa xuân, níu chân người ở lại với bản Mường đất Tổ…

Không biết từ bao giờ, những làn điệu hát ví, hát giang đã ngấm vào máu thịt, trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu của người Mường Phú Thọ mỗi dịp Tết đến xuân về. Khi tiếng “boong... khùm...” của cồng chiêng vang lên cùng với những câu ví, điệu giang mượt mà, sâu lắng ấy cũng là lúc xuân về trên vùng cao Thanh Sơn, Yên Lập của đất Tổ Hùng Vương. Ở đâu có bản Mường thì ở đấy có dấu ấn của hát ví, hát giang, có dấu ấn của hội séc bùa, hội cồng chiêng - nét sinh hoạt văn hóa đặc sắc của người Mường đang được bảo tồn, phục dựng. Hát ví, hát giang phản ánh khá chân thật tình cảm của con người và thường được tổ chức vào mùa xuân (tháng Giêng) và mùa thu (tháng 8). Nội dung lời ca bóng bẩy, giàu hình tượng, gần gũi với thiên nhiên, với lao động sản xuất và đời sống sinh hoạt hàng ngày, đồng thời cũng thể hiện được cảm xúc hồn nhiên, chân thành của người lao động. Hát ví còn phản ánh cụ thể các giai đoạn của tình yêu đôi lứa, phù hợp với nhân sinh quan tích cực của người lao động: gặp gỡ - làm quen - ướm hỏi - ưng thuận - thề nguyền - nhớ mong - giận hờn - oán trách - đợi chờ - tin tưởng. Trong hội làng, hát ví thường được tổ chức vào ban đêm bên bếp lửa nhà sàn hay vào ban ngày ở các hội đu xuân. Trong tiết xuân rạo rực, nghe những làn điệu hát ví, hát giang của người Mường, ta có những khoảng lặng để suy ngẫm về năm cũ, hướng tới năm mới. Những làn điệu ví, giang như đưa người nghe trở về với ngàn xưa, đánh thức những tình cảm sâu kín trong mỗi người, hướng con người tới những điều tốt đẹp. Hát ví, hát giang cũng được lớp trẻ đón nhận với tình cảm trân trọng nhất. Dưới nếp nhà sàn, mỗi khi hoa mận, hoa mơ nở trắng rừng những điệu ví, điệu giang lại ngân vang gọi bạn đến với Mường tôi.

Cùng với hát ví, hát giang, múa trống đu cũng là một nét văn hóa đầy sức xuân của vùng đất này. Tiếng trống đu nửa như thúc giục, nửa lại như tiễn đưa, chào đón người phương xa trở về. Quanh bếp lửa bập bùng, những âm thanh da diết, mãnh liệt cùng động tác gõ trống, xoay trống, lăn trống, vần trống, ôm trống... đưa người nghe, người xem đến với khát vọng về sự đoàn tụ, no ấm, tình đoàn kết giữa làng trên bản dưới, xóa đi ranh giới của sự giàu sang hay hèn kém trong xã hội. Tiếng trống xua đi những điều không may của năm cũ, và mang đến niềm hứng khởi, lòng tin về một tương lai đầy đủ hơn và tươi đẹp hơn cho bản Mường. Những động tác múa khéo léo, được tô điểm bằng trang phục rực rỡ của các tay chơi trống khiến cho màn múa trống đu càng thêm náo nhiệt và đầy màu sắc. Các nghệ nhân múa trống đu kể lại rằng: xưa có đôi vợ chồng người Mường sống với nhau vô cùng hạnh phúc, bỗng một hôm, người vợ bị ốm nặng rồi qua đời. Người chồng vô cùng đau khổ, thương nhớ vợ không nguôi. Nỗi nhớ ấy càng da diết hơn khi người chồng ngày ngày chứng kiến cảnh đứa con trai nhỏ nhớ gọi mẹ. Thương con, người cha lấy trống đánh cho con nghe. Đứa nhỏ nghe tiếng trống thì nín khóc. Tiếng trống giúp nguôi ngoai nỗi nhớ mẹ, nhớ vợ của hai bố con. Cứ thế, đông qua, xuân về, tết đến, khi người cha già rồi qua đời, người con lại lấy trống ra đánh để tiễn biệt cha. Từ câu chuyện cảm động về tình vợ chồng, cha con, nghệ thuật đánh trống đu của người Mường Phú Thọ được truyền từ đời này qua đời khác. Ban đầu trống đu chỉ dành cho hai người, sau phát triển thành nhóm chừng 4 - 5 người, trở thành một trong những trò diễn không thể thiếu trong hội làng...

Mềm mại và uyển chuyển hơn là hội đu xuân, tổ chức ở hầu hết bản Mường Thanh Sơn, Yên Lập với sự tham gia của nam thanh, nữ tú trong bản. Giờ đây, đu cọn và hát ví trên đu cọn hầu như không còn nữa, nhưng đu cây thì bản nào cũng có. Những chiếc đu bồng bềnh, nhịp nhàng theo những lần vít tay như vẽ vào bức tranh xuân vùng cao những cánh diều của tuổi trẻ, của ước mơ, hạnh phúc. Cái níu vít của cánh đu cùng với những tà áo nhẹ bay phấp phới trong gió xuân như muốn giữ chân người ở lại, như một lời mời gọi ân tình, thiết tha. Tiếng cười trong trẻo, tiếng reo hò hân hoan của người chơi náo nức một vùng.

Hội xuân bản Mường còn có tục đâm ống múa mỡi, hát nàng bung nàng bạn, hát ngoắt ngeo..., các trò chơi dân gian như bắn nỏ, ném còn, leo dây..., đặc biệt là nghi lễ rước kiệu của đồng bào trong hội làng, dưới lất phất mưa xuân và sắc trắng của hoa mận, sắc thắm của hoa đào, tạo nên một không gian xuân độc đáo của người Mường trên đất Tổ.


Báo Điện tử VnMedia

Ý kiến bạn đọc