Chữa ung thư bằng nấm lim xanh

08:20, 01/08/2012
|

Y khoa thế giới ghi nhận một liệu pháp chữa trị ung thư xuất phát từ Việt Nam đang được nghiên cứu và thử nghiệm đó là sử dụng các chế phẩm từ nấm lim xanh - một loài nấm đặc hữu của Việt Nam.

 

Nguyên nhân gây ung thư là sự sai hỏng của ADN, tạo nên các đột biến ở các gene thiết yếu điều khiển quá trình phân bào cũng như các cơ chế quan trọng khác. Một hoặc nhiều đột biến được tích lũy lại sẽ gây ra sự tăng sinh không kiểm soát và tạo thành khối u. Khối u là một khối mô bất thường, có thể ác tính, tức ung thư hoặc lành tính, tức không ung thư.

 

Nếu không được chữa trị sớm, hầu hết các loại ung thư có thể gây tử vong, đây là một trong những nguyên nhân gây tử vong chính trong những nước phát triển. Hầu hết các bệnh ung thư có thể chữa trị và nhiều bệnh có thể chữa lành, nếu được phát hiện và điều trị sớm.

 

Các tế bào ung thư trong một khối u (bao gồm cả tế bào đã di căn) đều xuất phát từ một tế bào duy nhất phân chia mà thành. Do đó một bệnh ung thư có thể được phân loại theo loại tế bào khởi phát và theo vị trí của tế bào đó. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, người ta không xác định được khối u nguyên phát.

 

Các hướng điều trị ung thư

 

Ung thư có thể được điều trị bằng phẫu thuật, hóa trị liệu, xạ trị liệu, miễn dịch trị liệu hay các phương pháp khác. Việc chọn lựa phương pháp điều trị phụ thuộc vào vị trí và độ (grade) của khối u, giai đoạn của bệnh, cũng như tổng trạng của bệnh nhân. Một số điều trị ung thư thực nghiệm cũng đang được phát triển. Có thể thống kê một số dạng điều trị ung thư như sau:

 

Phẫu thuật : Nếu khối u còn khu trú, phẫu thuật là phương pháp thường được lựa chọn. Ví dụ có phẫu thuật cắt bỏ tuyến vú ở ung thư vú, cắt bỏ tuyến tiền liệt ở ung thư tuyến tiền liệt. Mục đích của phẫu thuật là có thể cắt bỏ chỉ khối u đơn thuần hoặc toàn bộ cơ quan. Khi một tế bào ung thư phát triển thành một khối u khá lớn, việc chỉ cắt bỏ khối u đơn thuần dẫn đến tăng nguy cơ tái phát.



Ảnh minh họa
Ảnh: Tế bào ung thư dưới kính hiển vi điện tử

 

Hóa trị liệu: Hóa trị liệu là điều trị ung thư bằng thuốc ("thuốc chống ung thư") có khả năng tiêu diệt tế bào ung thư. Chúng can thiệp vào phân bào theo các cách khác nhau, ví dụ như sự sao chép DNA hay quá trình phân chia các nhiễm sắc thể mới được tạo thành. Hầu hết các dạng hóa trị đều nhắm vào các tế bào phân chia nhanh chóng và không đặc hiệu cho tế bào ung thư. Vì vậy, hóa trị có khả năng làm tổn thương các mô lành, đặc biệt là các mô có tần suất thay thế nhanh chóng (ví dụ như niêm mạc ruột).

 

Miễn dịch trị liệu: Miễn dịch trị liệu ung thư là sử dụng cơ chế miễn nhiễm chống lại khối u. Chúng được dùng trong các dạng ung thư khác nhau, như ung thư vú (Trastuzumab/Herceptin®) và Leukemia (Gemtuzumab ozogamicin/Mylotarg®). Các chất đó là kháng thể đơn dòng nhằm chống lại các protein đặc trưng cho các tế bào ung thư, hay các Cytokine điều hoà đáp ứng của hệ miễn dịch.

 

Xạ trị liệu: Xạ trị liệu (điều trị bằng tia X hay chiếu xạ) là sử dụng một dạng năng lượng (gọi là phóng xạ ion hoá) để diệt tế bào ung thư và làm teo nhỏ khối u. Xạ trị làm tổn thương hay hủy hoại các tế bào được điều trị ("mô đích") bằng cách làm tổn thương vật chất di truyền của chúng, khiến chúng không thể phát triển và phân chia. Mặc dù xạ trị làm tổn thương cả tế bào ung thư và tế bào lành, hầu hết các tế bào lành có thể hồi phục và hoạt động bình thường. Mục tiêu của xạ trị là làm tổn thương càng nhiều tế bào ung thư trong khi giới hạn tổn thương đối với mô lành lân cận.

 

Ức chế nội tiết tố: Sự phát triển của hầu hết các mô, bao gồm ung thư, có thể được gia tăng hay bị ức chế bằng cách cung cấp hay ngăn chặn các loại hormone nào đó. Điều này cho phép một phương pháp bổ sung trong điều trị nhiều loại ung thư. Các ví dụ thông thường của khối u nhạy cảm với hormone là một số loại ung thư vú, tiền liệt tuyến, và tuyến giáp. Việc loại bỏ hay ức chế estrogen (đối với ung thư vú), testosterone (ung thư tiền liệt tuyến), hay TSH (ung thư tuyến giáp) là phương pháp điều trị bổ sung quan trọng.

 

Chữa ung thư bằng y học thay thế và bổ sung với nấm lim xanh

 

Y học thay thế và bổ sung (complementary and alternative medicine - CAM) là nhóm phong phú các hệ thống săn sóc sức khỏe và y tế, thực hành và sản phẩm được xem là có hiệu quả bởi các chuẩn mực của y học quy ước. Một số phương pháp điều trị không quy ước được dùng "bổ sung" cho điều trị quy ước, nhằm tạo sự thoải mái và nâng cao tinh thần cho bệnh nhân.

 

Y khoa thế giới ghi nhận một liệu pháp chữa trị ung thư xuất phát từ Việt Nam đang được nghiên cứu và thử nghiệm đó là sử dụng các chế phẩm từ nấm lim xanh – một loài nấm đặc hữu của Việt Nam. Tạp chí Tin tức Y tế xuất bản tại Mỹ số ra tháng 5/2012 cho biết các bác sỹ ở bệnh viện St. John's tại Birmingham nước Anh đã thử nghiệm sử dụng nấm lim xanh trong điều trị ung thư. Nghiên cứu được tiến hành trên hai nhóm bệnh nhân ung thư, trong đó một nhóm được dùng nấm lim xanh dạng chiết xuất dịch lỏng và nhóm kia dùng giả dược, cả hai đều theo đường uống. Kết quả ban đầu cho thấy sau ba mươi ngày thực nghiệm, nhóm bệnh nhân uống nấm lim xanh cải thiện rõ rệt về thể trạng và tinh thần còn nhóm dùng giả dược không có sự chuyển biến. Theo bác sỹ Kerry Martaln, trưởng nhóm nghiên cứu, các thành phần dược chất và công dụng cụ thể của nấm lim xanh còn cần được nghiên cứu chuyên sâu thêm, tuy nhiên việc cải thiện sức khỏe bệnh nhân là một tiền đề tốt để hỗ trợ các phác đồ điều trị theo quy ước khác đạt thành công. Được biết, lô nấm lim xanh sử dụng trong thử nghiệm y học trên đây là do Công ty TNHH Nông lâm sản Tiên Phước (tên tiếng Anh: Tien Phuoc forestry and agricultural products company limited ) cung cấp và gửi sang từ Việt Nam.


Mai Thị Duyên (Dịch từ tiếng Anh)

Ý kiến bạn đọc