Trầm cảm là một căn bệnh y khoa nghiêm trọng có liên quan đến não. Các triệu chứng có thể bao gồm như buồn chán, mất hứng thú hoặc niềm vui trong các hoạt động mà bạn sử dụng để thưởng thức, thay đổi trong trọng lượng, khó ngủ hoặc ngủ quên, thất thoát năng lượng, cảm giác vô dụng, suy nghĩ về cái chết hoặc tự sát.
Cần theo dõi những bất thường trong quá trình điều trị
Các loại thuốc điều trị trầm cảm bao gồm: SSRIs (thuốc ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc), SNRIs (serotonin và norepinephrine tái hấp thu các chất ức chế), MAOIs (thuốc ức chế monoamine oxidase) và tricyclics. Tuy nhiên, dùng loại thuốc trầm cảm nào phải do bác sĩ khám bệnh và quyết định. Điều quan trọng là khi dùng thuốc nếu gặp một trong các triệu chứng sau: đau đầu, buồn nôn, mất ngủ và căng thẳng, kích động hoặc cảm giác bồn chồn, giảm tình dục, khô miệng, táo bón, mờ mắt hoặc buồn ngủ vào ban ngày… thì cần phải thông báo ngay cho bác sĩ điều trị của mình biết, vì đây có thể là các tác dụng phụ do thuốc gây ra.
Đối với trường hợp dùng thuốc hoặc tâm lý hoặc kết hợp cả hai phương pháp này không hiệu quả người ta có thể dùng liệu pháp điện (ECT). Trong những năm gần đây, liệu pháp này đã được cải thiện rất nhiều và có thể giúp cho người bị trầm cảm nặng, những người đã không thể cảm thấy tốt hơn với phương pháp điều trị khác. ECT có thể gây ra tác dụng phụ này ngắn hạn, trong đó có sự nhầm lẫn, mất phương hướng và mất trí nhớ. Những tác dụng phụ này thường rõ ràng ngay sau khi điều trị. Các nghiên cứu cũng đã chỉ ra rằng sau một năm điều trị ECT, bệnh nhân không có tác dụng phụ về mặt nhận thức.
Ảnh minh họa |
Cảnh báo về thuốc chống trầm cảm
Mặc dù thực tế là các thuốc SSRI và thuốc chống trầm cảm khác thường an toàn và đáng tin cậy, tuy nhiên, một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng thuốc có thể có tác động không chủ ý trên một số người, đặc biệt là người trẻ tuổi. Năm 2004, Cơ quan Quản lý thuốc và thực phẩm Mỹ (FDA) đã xem xét dữ liệu từ các nghiên cứu về thuốc chống trầm cảm có liên quan đến gần 4.400 trẻ em và thanh thiếu niên đang được điều trị trầm cảm. Báo cáo chỉ ra rằng, 4% của những người này đã xuất hiện ý nghĩ tự tử (mặc dù không có vụ tự tử xảy ra), so với 2% của những người đã uống thuốc giả dược. Thông tin này đã khiến FDA phải cảnh báo (vào năm 2005) trên nhãn tất cả các thuốc chống trầm cảm để cảnh báo cho công chúng về khả năng tăng nguy cơ suy nghĩ tự tử của thuốc.
Cảnh báo cũng nhấn mạnh rằng, trẻ em, thanh thiếu niên và thanh niên khi dùng thuốc chống trầm cảm cần được theo dõi chặt chẽ, đặc biệt là trong những tuần đầu điều trị với các triệu chứng như trầm cảm nặng hơn, suy nghĩ hoặc hành vi tự tử. Chúng bao gồm các thay đổi bất thường trong hành vi như mất ngủ, kích động. Tuy nhiên, kết quả xem xét lại các thử nghiệm ở trẻ em từ năm 1988 - 2006 cho thấy những lợi ích của thuốc chống trầm cảm có khả năng lớn hơn rủi ro khi điều trị cho trẻ em và thanh thiếu niên bị trầm cảm và rối loạn lo âu.
Ý kiến bạn đọc