Thay đổi tích cực trong quy định về quyền con người

21:16, 30/01/2013
|

Trong cuộc trao đổi với phóng viên, Thạc sỹ Nguyễn Linh Giang, Phó Trưởng phòng Nghiên cứu về quyền con người (Viện Nhà nước và Pháp luật), cho rằng Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã có những thay đổi rất tích cực trong quy định về quyền con người, quyền công dân. 
 
Bà nhận thấy những điểm mới gì trong Chương II Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân đang được lấy ý kiến nhân dân?

Thạc sỹ Nguyễn Linh Giang: Đây không hoàn toàn những điểm mới mà nói một cách chính xác thì đó là những thay đổi hợp lý hơn so với bản Hiến pháp năm 1992.

Thứ nhất là vị trí của Chương đã được chuyển từ Chương V (Hiến pháp năm 1992) lên Chương II (Dự thảo sửa đổi). Tham khảo Hiến pháp nhiều nước trên thế giới, vị trí chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân cũng thường đặt ở vị trí Chương II, ví dụ như Hiến pháp của Nga, Ba Lan, Thụy Điển, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Cu Ba... Ở Việt Nam trong Hiến pháp năm 1946 thì Chương nghĩa vụ và quyền của công dân cũng nằm ở vị trí Chương II. Sau này tới Hiến pháp năm 1959 thì chuyển xuống chương III, từ Hiến pháp năm 1980 và năm 1992 thì chế định này nằm ở Chương V. Việc thay đổi để đưa nó trở về Chương II là hợp lý vì đã thể hiện sự tôn trọng của nhà nước với Quyền con người và Quyền công dân, đồng thời, thể hiện rõ nét tư tưởng, quan điểm: Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải lấy quyền con người, quyền công dân làm cơ sở, làm trung tâm.

Thứ hai là về tên gọi của Chương. Tên gọi của chương liên quan đến quyền con người, quyền công dân trong tất cả các bản hiến pháp Việt Nam từ trước đến nay đều là “Nghĩa vụ và quyền của công dân” hoặc là “Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân ”, đến lần sửa đổi này thì tên gọi là “ Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” theo tôi là hợp lý vì đã bao quát được nội dung của Chương và phân biệt được rõ ràng quyền con người và quyền công dân.

Thứ ba là việc sắp xếp lại trật tự, thứ tự các quyền ở trong Chương này là logic, khoa học hơn nhiều so với Hiến pháp năm 1992. Các điều khoản được sắp xếp theo thứ tự từ các nguyên tắc, tuyên bố chung, đến các quyền dân sự, chính trị (thế hệ quyền con người thứ nhất), rồi đến các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (thế hệquyền con người thứ hai) và trong dự thảo này đã xuất hiện quyền thuộc thế hệ quyền con người thứ ba là quyền được sống trong môi trường trong lành, tiếp theo đó là những quy định về nghĩa vụ và những quy định về người nước ngoài. Đây là một cách sắp xếp hợp lý và khoa học.

Thứ tư là trong bản dự thảo đã bổ sung thêm một số quyền mới và quan trọng mà Hhiến pháp 1992 còn thiếu, đó là các quyền: Quyền được sống và nghiêm cấm cưỡng bức lao động, đồng thời Dự thảo cũng đã bổ sung thêm một số quyền quan trọng khác như quyền xác định dân tộc, sử dụng ngôn ngữ mẹ đẻ, tự do lựa chọn ngôn ngữ giao tiếp của công dân và quyền được sống trong môi trường trong lành của mọi người.

Cuối cùng, cũng rất quan trọng là ngôn ngữ thể hiện. Những cụm từ được các nhà khoa học gọi là ngôn ngữ mang tính “ban ơn” ở Hiến pháp trước như “Nhà nước bảo đảm”, “Nhà nước bảo hộ”, “Nhà nước tạo điều kiện” đã không còn trong Chương này của Dự thảo sửa đổi. Thay vào đó là các cụm từ “Mọi công dân có quyền”, hoặc là “Mọi người có quyền”. Ngoài ra lời văn ở Chương II đã ngắn gọn và súc tích hơn. Đấy là những thay đổi mà tôi thấy là tích cực.

Khái niệm quyền con người rộng hơn quyền công dân, khái niệm quyền công dân thực chất nằm ở trong khái niệm quyền con người.

Quyền con người là quyền dành cho bất cứ ai sinh ra trên đời này đều được hưởng những quyền đó. Còn quyền công dân là tập hợp các quyền và nghĩa vụ của một người khi người đó là thành viên của một quốc gia cụ thể.

Quy chế pháp lý của quyền con người được ghi nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế và khu vực chẳng hạn như các Tuyên ngôn, Tuyên bố, Công ước… Còn quy chế pháp lý quyền công dân phải được ghi nhận trong Hiến pháp và văn bản pháp luật của quốc gia vì nó thể hiện mối quan hệ giữa công dân với nhà nước.
 
Có ý kiến cho rằng đối với quyền con người thì Nhà nước chỉ cần tôn trọng, đảm bảo, còn với quyền công dân thì phải đảm bảo tới cùng với một chế độ pháp lý cao hơn. Ý kiến của bà như thế nào?

Thạc sỹ Nguyễn Linh Giang: Nói như vậy là không chính xác bởi vì quyền con người hay quyền công dân thì đều cần Nhà nước tôn trọng và bảo đảm bằng mọi giá và một khi các quyền đã bị xâm phạm thì nhà nước vẫn phải bảo vệ đến cùng. Đó là nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền.

Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của rất nhiều các Công ước quốc tế về quyền con người nên việc bảo đảm, bảo vệ các quyền con người là nghĩa vụ thành viên mà Việt Nam buộc phải thực hiện, không thể và cũng không nên phân biệt giữa việc bảo vệ quyền con người với quyền công dân.

Với việc thể hiện rõ ràng quyền con người trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp như vậy cho thấy điều gì từ phía cơ quan lập hiến?

Thạc sỹ Nguyễn Linh Giang: Điều này thể hiện thái độ tôn trọng của Nhà nước ta đối với những vấn đề về quyền con người, coi con người là trung tâm của mọi hoạt động và việc tổ chức bộ máy nhà nước trong các Chương khác cũng chỉ nhằm phục vụ con người và công dân Việt Nam.

Đồng thời điều này cũng cho thấy các nhà lập hiến đã lấy các tiêu chuẩn pháp lý quốc tế về quyền con người làm cơ sở để từ đó xây dựng quy chế pháp lý về quyền con người, quyền công dân của Việt Nam. Đây là một bước rất tiến bộ và đồng thời cũng thể hiện sự hội nhập quốc tế của Việt Nam trong tiến trình bảo vệ và thúc đẩy quyền con người.

Bà có góp ý gì thêm trong sửa đổi Chương II của Dự thảo?

Thạc sỹ Nguyễn Linh Giang: Chương II đã có rất nhiều thay đổi tích cực, tuy nhiên về ý kiến cá nhân tôi thấy là Chương II vẫn còn thiếu các quy định liên quan tới một số quyền quan trọng mà có lẽ cần bổ sung chẳng hạn như: quyền không bị bắt làm nô lệ, quyền tham gia vào quyết định các vấn đề về môi trường liên quan tới cuộc sống của mình, hoặc là quyền của một số đối tượng dễ bị tổn thương như là người cao tuổi, người khuyết tật, …

Bên cạnh đó, một số quyền trong Dự thảo thường đi kèm theo cụm từ “theo quy định của pháp luật” thì cần được sửa lại thành “theo quy định của luật”. Ngoài ra, một số quyền Dự thảo dành cho công dân nhưng đúng ra phải là quyền dành cho con người như Điều 24 quy định công dân có quyền tự do đi lại, Điều 36 là quyền có nơi ở hợp pháp, Điều 41 về quyền được bảo vệ sức khỏe thì tôi nghĩ những điều này phải được sửa lại là “mọi người có quyền” chứ không chỉ là công dân.

Công dân có quyền viện dẫn trực tiếp Hiến pháp

E ngại quyền của con người, quyền của công dân nhiều khi không được quy định cụ thể bằng luật trong cuộc sống, nhiều ý kiến cho rằng Hiến pháp cần đảm bảo việc thực thi các quyền này? Ý kiến của bà như thế nào?

Thạc sỹ Nguyễn Linh Giang: Tôi nghĩ bất cứ quyền nào đã được ghi nhận trong Hiến pháp thì nhà nước phải có trách nhiệm thực hiện. Việc cụ thể các quyền bằng luật để người dân có cơ sở thực hiện quyền của mình cũng là một trách nhiệm của Nhà nước.

Theo tôi, để đảm bảo thực thi được các quyền hiến định này trên thực tế thì phải đảm bảo được tính có hiệu lực trực tiếp của hiến pháp. Hiến pháp cần quy định công dân có quyền viện dẫn trực tiếp Hiến pháp để bảo vệ quyền của mình khi các quyền đó bị xâm hại. Từ trước đến nay, nước ta chưa có tiền lệ viện dẫn đến Hiến pháp để bảo vệ quyền của mình nên thời điểm này quy định cụ thể như vậy sẽ rõ ràng hơn và tạo cơ chế cho người dân có thể sử dụng Hiến pháp để bảo vệ quyền của mình.

Như thế đã thực sự đủ chưa hay còn cần đến một thiết chế?

Thạc sỹ Nguyễn Linh Giang: Cần có một thiết chế- một cơ quan đặc biệt bảo vệ quyền con người, cơ quan này sẽ khác với những cơ quan nhà nước khác như là tòa án hay các cơ quan trực thuộc Quốc hội, Chính phủ hay các tổ chức chính trị xã hội mà ta đang có,… Đó là có thể là một Ủy ban, một Viện Nhân quyền quốc gia hay một cơ chế kiểu Thanh tra Quốc hội hay Người bảo vệ quyền như ở nhiều nước trên thế giới.

Nhưng trong dự thảo Chương II của chúng ta vẫn vắng bóng quy định này, mặc dù việc phải thành lập một cơ quan nhân quyền quốc gia đã nằm ở trong khuyến nghị của nhiều nước dành cho Việt Nam trong thời gian chúng ta trình bày Báo cáo quốc gia kiểm điểm định kỳ về nhân quyền (UPR) tại Liên hợp quốc năm 2009.

Bà nói cơ quan này khác các cơ quan khác như Toà án, hay thậm chí là một mô hình Hội đồng Hiến pháp mà Dự thảo sửa đổi đang đề cập đến. Xin bà cho biết rõ hơn?

Thạc sỹ Nguyễn Linh Giang: Các thiết chế này hoàn toàn khác nhau. Trong cơ chế bảo hiến, thông thường ngoài việc xem xét các quy định, quyết định vi hiến thì đồng thời cũng có chức năng là bảo vệ quyền con người, quyền công dân nhưng vai trò và chức năng rất khác so với cơ quan nhân quyền quốc gia. Hội đồng Bảo hiến nếu được trao cho chức năng bảo vệ quyền con người thì đó sẽ là cơ quan ra quyết định để giải quyết các vi phạm quyền con người cụ thể.

Còn Cơ quan nhân quyền quốc gia thực chất là một đầu mối giúp đỡ cho nhà nước thực hiện và đảm bảo thực hiện quyền con người tốt hơn. Cơ quan này sẽ làm các nhiệm vụ như giáo dục quyền con người, phổ biến thông tin, đưa ra các trợ giúp trong trong trường hợp quyền con người bị vi phạm mà nạn nhân không biết phải đến đâu, gặp ai và cơ quan nào sẽ có thẩm quyền giải quyết những vấn đề của họ. Cơ quan này như cầu nối giữa Nhà nước và công dân. Họ có thể tham gia xây dựng pháp luật, đưa ra các kiến nghị, khuyến nghị với Nhà nước, tham gia xây dựng các báo cáo về nhân quyền… với các hoạt động rất đa dạng và hoàn toàn khác cơ chế bảo hiến.


Báo Điện tử VnMedia

Ý kiến bạn đọc