(VnMedia) - Dì Bảy thanh thản đi “sang bên kia bầu trời” ở tuổi 82 sau khi lo trọn vẹn việc đời. 82 năm với biết bao đau đớn, mất mát, nhọc nhằn, khổ cực, dì Bảy vẫn không một lời phiền trách, vẫn độ lượng, bao dung... Dì mãi mãi để lại cho con cháu, người thân, bạn bè cả sự ngưỡng mộ, cảm phục lẫn xót thương...
Hồi sống ở Phú Yên, nhà tôi sát vách nhà dì Bảy. Lúc chuyển đến nhà mới, hàng xóm đầu tiên tôi gặp là bà cụ hơn bảy mươi, da nhăn nheo, lưng còng, khuôn mặt khắc khổ khó đăm đăm chẳng mấy khi cười.
Dì Bảy khó tính thật. Hàng xóm xung quanh và ngay các con cháu của dì cũng bảo thế. Vì vậy, khi tiếp xúc với dì, tôi hết sức dè dặt vì sợ bị bắt lỗi. Nhưng dì Bảy quý con cháu lắm và rất tốt với hàng xóm. Ban ngày mọi người đi làm đều yên tâm vì đã có dì coi ngó nhà cửa giúp. Ai nhờ việc gì trong khả năng của mình, dì không bao giờ từ chối. Biết vậy mà tôi chẳng dám chuyện trò cởi mở bởi luôn mang ấn tượng dì là người khắt khe, kín đáo. Nhưng tôi đã lầm...
Vào một chiều mọi người đi vắng hết, dì Bảy ngồi trước cửa khâu vá. Tôi dắt xe ra định nổ máy thì vội dừng lại vì bất chợt thấy nghe thấy tiếng dì hát. Chất giọng khàn đục nhưng thật da diết:
“Đêm qua mơ dáng em đang ôm đàn dìu muôn tiếng tơ
Không gian trầm lắng nhưâu yếm ru ai trong giấc mơ
Mái tóc nhẹ rung trăng vờn làn gió
Yêu ai anh nắn cung...”
Bị phát hiện nhìn trộm, tôi cười gượng bước vào chào dì rồi chẳng hiểu ma xui quỷ khiến thế nào mà lại hỏi một câu rất khiếm nhã: “Dì cũng biết bài “Dư âm” à?”. Thật may, chẳng những dì không để ý mà còn vui vẻ cho tôi biết đó là ca khúc dượng Lưu (chồng dì) đã dạy dì hát từ thuở đang yêu. Bây giờ mỗi lần hát dì thấy nhớ dượng quá! Những giọt nước mắt đặc quánh lăn xuống đôi má nhăn nheo, dì nâng vạt áo thấm nước mắt và nghẹn ngào kể cho tôi nghe chuyện ngày xưa...
Dì Bảy Khái |
Năm 16 tuổi, dì Bảy gặp dượng Lưu. 17 tuổi dì về xã Hòa Thắng (huyện Tuy Hòa – Phú Yên) làm dâu. Cuộc sống nơi thôn quê tuy vất vả nhưng dì rất hạnh phúc. Song, hạnh phúc ấy kéo dài chẳng được bao lâu. Đầu năm 1945, kháng chiến chống Pháp bước vào giai đoạn quyết liệt, tạm biệt vợ con, dượng Lưu đi hoạt động cách mạng. Mới 21 tuổi, dì Bảy đã phải thay chồng nuôi mẹ, nuôi các em và hai đứa con thơ dại. Trăm bề khó khăn, nghìn nỗi vất vả, dì Bảy vẫn âm thầm chịu đựng, không một tiếng than phiền.
Song, đó chưa phải là tột cùng của nỗi thống khổ. Năm 1950, bom của thực dân Pháp thả trúng nhà đã cướp đi một lúc sinh mạng cả cả mẹ chồng, em chồng và hai đứa con trai yêu quý của dì. Một tuần sau thân phụ lại qua đời. Bảy ngày, năm cái tang như bóp nghẹt trái tim của người phụ nữ mới hai mươi sáu tuổi.
Đau đớn tới mức tưởng có thể chết đi được nhưng nghĩ đến chồng và đứa con gái vừa chào đời, dì cắn răng gượng dậy tiếp tục gánh vác công việc gia đình. Nỗi đau chưa kịp nguôi ngoai, năm 1952, dì vừa sinh bé Lan cũng là lúc dượng Lưu bị bắt. Suốt ba tháng ròng, tuần vài lần dì Bảy dắt con gái lớn, bồng con gái nhỏ đi thăm nuôi chồng. Sau nhiều lần thẩm vấn không tìm được chứng cứ, bọn địch buộc phải thả dượng Lưu.
Dượng Lưu và dì bảy trong lần gặp cuối cùng 1962 |
Ra tù, dượng Lưu tiếp tục hoạt động trên địa bàn tỉnh Phú Yên cho đến ngày đình chiến thì được phân công vào hoạt động bí mật tại Sài Gòn - Gia Định. Cũng từ đó dì Bảy bặt tin chồng, nhưng lại trở thành mục tiêu của bọn địch. Không tìm được dượng Lưu, bọn chúng liên tục bắt dì Bảy trình diện, khai báo. Đã khó khăn, khổ cực lại còn bị rình rập nhưng dì vẫn kiên nhẫn vừa nuôi con, vừa đóng góp lương thực, thực phẩm cho cách mạng và chờ chồng trở về.
Ban ngày bận rộn công việc, lo đối phó với kẻ địch còn có thể tạm quên, đêm về nỗi nhớ chồng vò võ suốt canh thâu, dì Bảy chỉ biết úp mặt xuống gối khóc thầm. Dượng Lưu còn sống hay đã chết? Liệu có bị bắt, bị tra tấn không? Lo lắng cho chồng, thương con, thương mình, dì Bảy quyết định dắt hai con gái vào Sài Gòn tìm dượng Lưu.
Sài gònrộng quá, ba mẹ rạc chân lang thang khắp hang cùng ngõ hẻm để rồi lại lủi thủi bồng bế nhau về Tuy Hoà trong nước mắt. Mặc dù vậy, dì vẫn không bỏ cuộc. Mỗi lần có người quen từ Sài Gòn về nói rằng gặp một người giống dượng Lưu ở chỗ này, chỗ nọ là mẹ con dì lại tất tưởi chạy vào. Khi đi tràn trề hy vọng bao nhiêu, lúc về tuyệt vọng bấy nhiêu…
Sau hơn 8 năm tìm kiếm chồng trong vô vọng, đầu năm 1962, qua một người bạn thân, dượng Lưu bất ngờ viết thư nhắn dì Bảy vào Sài Gòn. Sợ ảnh hưởng đến hoạt động bí mật của chồng, dì Bảy không dám dẫn các con theo. Vợ chồng gặp nhau mừng mừng, tủi tủi. Hơn tám năm, biết bao điều muốn nói mà không thể thốt nên lời, dì Bảy cứ gục đầu vào ngực chồng khóc mãi...
Sau 6 ngày, lúc dì Bảy chuẩn bị về Tuy Hòa, dượng Lưu chợt trở nên lúng túng, hình như có điều gì khó nói (?) Đưa mắt dò hỏi, thấy chồng vẫn ngập ngừng, dì bảo: “Vợ chồng nặng tình, nặng nghĩa đến vậy, còn điều gì anh không thể nói với em?” Nhìn gương mặt hao gầy hằn nỗi vất vả của vợ, dượng Lưu thì thầm: “Anh không nỡ. Tám năm vợ chồng gặp nhau mà nói với em điều này quả thật bất nhẫn nhưng anh không thể không cho em biết...”
Thấy vợ nhìn mình với ánh mắt chân thành, bao dung, dượng Lưu mới bớt ngại ngùng. Dượng cho biết trong 8 năm hoạt động bí mật,tổ chức đã sắp xếp dượng sống chung với một nữ cán bộ hoạt động hợp pháp tên là Thịnh. Dù rằng để đảm bảo việc hoạt động bí mật nhưng dượng Lưu vẫn cảm thấy vô cùng có lỗi. Không hiểu sao lúc đó dì không thấy ghen tuông, tức giận dù vẫn rất yêu chồng.
Bây giờ thì dì đã hiểu. Chiến tranh, loạn lạc, cái chết có thể đến bất cứ lúc nào. Suốt tám năm đi tìm chồng trong vô vọng, dì chỉ có một mong muốn duy nhất là dượng Lưu còn sống và khỏe mạnh. Điều mong mỏi đã trở thành hiện thực, chẳng những chồng vẫn sống mà còn được chăm sóc chu đáo, lẽ nào dì lại không vui? Dì một mực đòi dượng Lưu đưa đi gặp dì Thịnh.
Hai “tình địch” lần đầu tiên gặp mặt nhưng không hề nhìn nhau với ánh mắt nảy lửa, ghen tuông... Trái lại, trong nỗi xúc động, dì Bảy đã ôm dì Thịnh như ôm đứa em gái rồi nói trong tiếng nức nở: “Tất cả là do chiến tranh em ạ. Cám ơn em, cám ơn em rất nhiều vì đã lo lắng, chăm sóc anh Lưu thay chị. Chị ở xa không chăm sóc anh được, trăm sự chị nhờ em. Chị sẽ biết ơn em suốt đời”. Thế rồi dì chia tay chồng, lòng hoàn toàn thanh thản.
Dì Bảy và dì Thịnh tại Sài Gòn năm 1964 |
Dì Bảy có biết đâu rằng, đây là lần cuối cùng vợ chồng dì gặp nhau và lần này dượng Lưu đã để lại cho dì thêm một giọt máu nữa. Cuối năm 1962, dì Bảy sinh đứa con gái út, đặt tên là Ngọc Trai.
Ngọc Trai ra đời được mấy tháng thìdượng Lưu bị địch bắt. Những ngày ấy ở Tuy Hoà, dì Bảy cứ thấy ruột gan bồn chồn, làm việc gì cũng hỏng. Còn dì Thịnh vì lo dì Bảy bị sản hậu nên cuối năm 1963, khi bé Ngọc Trai được một tuổi, mới nhắn dì Bảy đưa các con vào Sài Gòn chơi.
Dì Bảy cùng Lan và Ngọc Trai vào tới nơi mới biết dượng Lưu bị bắt và đang bị giam giữ tại Trại giam An ninh quân đội ngụy. Dì đến gặp dượng ngay nhưng tổ chức sợ bọn địch lợi dụng vợ để ép chòng nên dì đành để dì Thịnh dẫn Lan và Trai đi thăm cha trước.
Thời gian thăm chỉ có 15 phút. Ước ao bao ngày mới được gặp ba, khi dượng Lưu bị dẫn đi, Lan chới với gào thét. Cố quay lại nhìn các con, dượng an ủi: “Thứ ba tuần sau lại đến thăm ba nhé! Khi nào về Tuy Hòa các con hãy ráng sống cho tốt và thương yêu con của chú Năm như em mình nhé vì chúng nó có hoàn cảnh rất giống các con...” Lan không thể ngờ đó là lần cuối cùng nhìn thấy cha.
Thứ ba tuần sau dì Thịnh, dì Bảy cùng Lan, Trai vào thăm thì dượng Lưu đã bị chuyển sang Tổng nha tra tấn. Đến nơi giam giữ mới, bọn địch bảo dượng Lưu bị cách ly để thẩm vấn, không được phép gặp thân nhân. Chờ mãi, chờ mãi, cuối cùng qua một đường dây bí mật, dượng Lưu đã gửi cho dì một bức thư. Chỉ có mấy dòng viết bằng bút chì trên một mẩu giấy nhỏ, nội dung:
“Khái em!
Vinh dự đời người ở giờ phút này. Anh không biết chúng sẽ đưa anh đi đâu nhưng chắc không còn ở đây nữa. Làm người, chết vinh còn hơn sống nhục. Anh mong em đừng quá đau buồn. Ráng nuôi các con khôn lớn. Anh tin tưởng ở em. Em hãy trở về Tuy Hoà với các con.
Lưu”
Ôm bức thư vào ngực, dì Bảy nức nở. Nghe lời dượng Lưu, dì đưa hai con gái trở về Tuy Hòa. Chú Năm (em ruột dượng Lưu) đi tập kết, dì Bảy và thím Năm dọn về ở chung để đỡ đần nhau. Thím Năm sốc vác, khỏe mạnh cáng đáng mọi công việc của đàn ông, dì Bảy yếu hơn lo mọi việc của phụ nữ. Nhưng lúc thím Năm bị bọn địch bắt giam thì từ việc đàn ông đến việc phụ nữ và việc nuôi dạy 5 đứa trẻ đều chất lên tấm thân gầy của dì Bảy.
Năm 1965, cả nhà thím Năm lên chiến khu, dì Bảy dắt díu các con về thị xã Tuy Hòa nương nhờ gia đình bên ngoại và mở sạp bán tạp hóa. Cũng năm đó, dượng Lưu bị đày ra Côn Đảo. Sau hơn một năm tra tấn bằng đủ các cực hình dã man: xà lim, chuồng cọp… vẫn không khuất phục được dượng Lưu, bọn địch đã giết dượng vào ngày 19/ 11/1966.
25 năm làm vợ, cộng dồn cũng chỉ hơn 5 năm được ở bên chồng, lúc chồng mất cũng không được gặp mặt lần cuối, nỗi đau đè nặng lên tấm thân mỏng manh khiến lưng dì Bảy còng hẳn xuống. Song, là chỗ dựa duy nhất của các con, dì lại gắng gượng vượt lên. Ngày ngày mẹ con dắt nhau xuống chợ bán hàng, tối về nhìn cảnh gia đình cậu mợ xum họp đầm ấm, mấy mẹ con ôm nhau khóc thầm.
Vậy mà ngay trong lúc chạm tới tận cùng nỗi thống khổ, dì Bảy vẫn không quên người bạn gái của chồng. Thương dì Thịnh cô đơn, thui thủi một mình, sau nhiều đêm trằn trọc, dì Bảy quyết định mang con gái út - bé Ngọc Trai - vào Sài Gòn giao cho dì Thịnh nuôi. Trong nỗi xúc động nghẹn ngào, dì Thịnh ôm dì Bảy khóc mãi. Từ đó họ sống với nhau như hai chị em gái.
Năm 1993, dì Thịnh qua đời. Xót thương người bạn gái của chồng ra đi quá sớm, dì Bảy muốn đích thân lo việc hậu sự cho dì Thịnh nhưng bản thân dì cũng quá ốm yếu không thể vào Sài Gòn được. Dì đã giao cho ba con gái vào lo tang lễ, mộ phần cho dì Thịnh chu đáo và rước ảnh về Tuy Hoà thờ...
Kể đến đây, dì Bảy đứng dậy đi đến bàn thờ. Theo chân dì, nhìn lên bàn thờ tôi thấy hai tấm ảnh: tấm thứ nhất chụp người đàn ông cỡ ngoài 40 tuổi, trông rất thư sinh -đó là liệt sỹ Nguyễn Lưu; tấm kia chụp một phụ nữ - đó là dì Thịnh. Dì Bảy cắm nhang lên bát hương và lầm rầm cầu khấn. Đăm đắm nhìn ảnh dượng Lưu và dì Thịnh một lúc, những giọt nước mắt đặc quánh lại từ từ lăn xuống gò má nhăn nheo của dì...
Dì Bảy với tay lấy từ chiếc đĩa trên bàn thờ một gói nhỏ. Dì run rẩy mở cái gói ấy ra và đưa tôi xem bức thư – kỷ vật cuối cùng của dượng Lưu mà dì còn giữ được. Bức thư, nhờ sự cẩn thận của dì nên sau mấy chục năm vẫn rõ từng nét chữ. Sau khi tôi đọc xong, dì Bảy gói buộc kỹ càng và đặt lại chỗ cũ.
Nhìn tấm lưng còng rạp của dì Bảy tôi hiểu thời gian và sự mất mát đã đè nặng lên tấm lưng ấy. Trong chiến tranh, biết bao nhiêu người phải chịu đựng sự hy sinh, mất mát. Người ta có thể không cần suy nghĩ nhiều lắm khi phải hy sinh tính mạng, tài sản. Nhưng hy sinh hạnh phúc riêng thật không đơn giản, đó có lẽ là lựa chọn khó khăn nhất, đau đớn nhất. Vậy mà dì Bảy đã hơn một lần hy sinh hạnh phúc riêng của mình – một sự hy sinh thật âm thầm, thật lặng lẽ, thật nhân hậu và bao dung. Điều đó đáng trân trọng biết bao.
Ý kiến bạn đọc