Chuyên gia về đô thị của Ngân hàng Thế giới:: "Dân số Hà Nội chưa phải quá dày đặc"

15:25, 12/07/2012
|

(VnMedia) - Mật độ dân số của Hà Nội có thể không đặc biệt dày đặc so với các thành phố châu Á khác, nhưng Hà Nội lại thiếu cơ sở hạ tầng để hỗ trợ dân cư của mình… Ông Dean Cira - Chuyên gia về đô thị của Ngân hàng Thế giới nói…

 

- Xin ông cho biết những thách thức và lợi ích mà quá trình đô thị hoá ở Việt Nam, đặc biệt là những thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.

 

 Ảnh minh họa

 Dean Cira - Chuyên gia về đô thị của Ngân hàng Thế giới

Việt Nam cũng giống như hầu hết các quốc gia đang trải qua quá trình đô thị hoá đồng thời với việc trải qua thời kỳ tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ. Do vậy, có thể nói quá trình đô thị hoá góp phần thúc đẩy tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo ra các cơ hội kinh tế và việc làm cho cả lao độngcó kỹ năng và lao động không có kỹ năng.

 

Chúng tôi cũng nhận thấy rằng, quá trình đô thị hoá giúp Việt Nam giảm đi đáng kể tỷ lệ đói nghèo trên toàn quốc trong vòng 15 năm qua. Nhưng tất nhiên quá trình đô thị hoá cũng tồn tại những thách thức, đặc biệt là ở những thành phố lớn.

 

Thách thức bao gồm cả điều chỉnh phương thức thực hiện quy hoạch để quá trình thực hiện có sự tham gia của nhiều thành phần xã hội hoá và cùng sử dụng được nhiều nguyên tắc quy hoạch hiện nay hơn. Ngoài ra cũng cần phải giải quyết các vấn đề đang nổi lên như tắc nghẽn giao thông do lưu lượng tham gia giao thông quá nhiều hoặc do thiếu cơ sở hạ tầng giao thông, ô nhiễm môi trường như cấp thoát nước và nước thải…

 

Bên cạnh đó, một thách thức lớn khác là đảm bảo tính hợp lý về giá cả thị trường nhà đất, bởi vì chúng tôi đang nhìn thấy rằng nhà ở đang dần vượt quá tầm tay của nhiều người dân Việt Nam .

 

- Đô thị hóa hiện nay tập trung quá nhiều vào xây dựng mới, làm tăng mật độ dân số và xây dựng và làm môi trường sống của người dân bị thu hẹp lại. Theo ông thì đâu là mô hình quy hoạch mà Việt Nam nên sử dụng?


Có một niềm tin phổ biến trong các nhà quy hoạch và người Việt Nam nói chung là cần giảm tải mật độ của các trung tâm đô thị lớn như ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh để cải thiện chất lượng cuộc sống. Nhưng thực sự là, nếu xét theo tiêu chuẩn Châu Á thì mật độ của Hà Nội không phải là quá dày đặc.


Thực sự thì mật độ dân số trung bình của Hà Nội thấp hơn so với Seoul , Thiên Tân và Hồng Kông - những thành phố được coi là khá dễ sống. Nhưng chúng tôi khuyến nghị rằng, các nhà quy hoạch đô thị ở Việt Nam cần phải tập trung vào đảm bảo tính linh động cho lực lượng lao động và người tiêu dùng, cũng như mức giá nhà đất hợp lý cho doanh nghiệp và hộ gia đình. Về mặt này, các nhà quy hoạch của Việt Nam có thể làm tốt hơn nhiều.

 

Trong khi mật độ dân số của Hà Nội có thể không đặc biệt dày đặc so với các thành phố châu Á khác, nhưng Hà Nội lại thiếu cơ sở hạ tầng để hỗ trợ dân cư của mình. Thử lấy ví dụ về không gian đường bộ.

 

Trong nghiên cứu cho Đánh giá Đô thị hóa Việt Nam, chuyên gia về đô thị hóa Alain Bertuad chỉ ra rằng ở những quận trung tâm của Hà Nội, không gian đường phố chỉ chiếm có 9% diện tích, tương đương với Bangkok - một thành phố nổi tiếng với ùn tắc giao thông. Trong khi đó, trung tâm Manhattan của New York dành khoảng 32% còn các quận kinh doanh trung tâm của Seoul dành 14% diện tích cho không gian đường phố, giúp các thành phố này có những lựa chọn giao thông rất hợp lý cho người dân.

 

Vấn đề ở đây là các nhà quy hoạch của Việt Nam cần tập trung không chỉ vào xây dựng đô thị và các tòa nhà mới, mà quan trọng là phải thống nhất giữa phát triển nhà đất với giao thông vận tải.


- Liệu chúng ta có nên ngăn chặn hoặc hạn chế dòng nhập cư vào thành phố? Tại sao? Nếu có, làm thể nào để thực hiện được, thưa ông?


Có một số bằng chứng cho thấy ở Việt Nam , khả năng tiếp cận với các dịch vụ cơ bản ở khu vực thành thị tốt hơn so với khu vực nông thôn, và ở đô thị lớn thì tốt hơn đô thị nhỏ. Đây là một lý do phổ biến khiến người dân di cư từ nông thôn đến các khu vực đô thị. Nhưng cũng có bằng chứng cho thấy phần lớn người Việt Nam đang di dân đến thành phố vì cơ hội kinh tế tốt hơn chứ không phải là vì thiếu các dịch vụ ở khu vực nông thôn.


Đô thị hoá không đảm bảo tăng trưởng kinh tế và hiện đại hóa, nhưng là một phần không thể tách rời trong quá trình chuyển đổi của Việt Nam từ quốc gia thu nhập thấp lên thu nhập trung bình và cao hơn nữa. Điều này cũng phụ thuộc khá nhiều vào việc Việt Nam quản lý quá trình chuyển đổi từ kinh tế nông thôn sang thành thị như thế nào. Gần như tất cả các quốc gia đều đô thị hóa ít nhất 50% đô thị hóa trước khi trở thành nước thu nhập trung bình đầy đủ.


Việt Nam dự kiến sẽ đạt mốc này vào năm 2025. Đây là những lý do quan trọng khiến chúng ta không nên cố gắng hạn chế di cư đến các thành phố. Tuy nhiên, Việt Nam sẽ cần phải cẩn trọng cân bằng những vấn đề sẽ phát sinh trong quá trình đô thị hóa nhanh chóng như khả năng tăng chi phí do tắc nghẽn giao thông, bất bình đẳng vùng miền, gia tăng đói nghèo đô thị, ô nhiễm đô thị và tăng giá cả nhà đất. Một số rủi ro đã hiển hiện và ngày càng gia tăng nhanh chóng.


Đồng thời, Việt Nam phải sẵn sàng để sử dụng đô thị hóa như một công cụ để duy trì tăng trưởng kinh tế và cơ hội cho tất cả mọi người. Điều này sẽ có nghĩa là, phải đảm bảo khả năng cạnh tranh kinh tế của các vùng kinh tế trọng điểm, đảm bảo tính bền vững kinh tế, xã hội và môi trường của các thành phố (bao gồm cả thành phố cỡ trung và nhỏ), làm cho những nơi này trở thành thành phố mơ ước của tất cả các tầng lớp trong xã hội và tăng năng suất kinh tế thông qua phát triển công nghệ hiện đại và lực lượng lao động được đào tạo tốt hơn và linh động hơn.


Tuệ Khanh - (ghi)

Ý kiến bạn đọc