(VnMedia) - “Shock phản vệ cướp đi tính mạng của người bệnh, luôn là nỗi kinh hoàng, ám ảnh và là điều không mong muốn, ngoài năng lực dự đoán của tất cả các bác sĩ” - TS Nguyễn Tiến Quang nhấn mạnh.
Tiêm thuốc cản quang bị tử vong
Ngày 30/9/2017, tại Bệnh viện K cơ sở Tân Triều, đã xảy ra trường hợp tử vong của bệnh nhân Trần Thị L., 45 tuổi, quê Quỳnh Lưu, Nghệ An. Chẩn đoán tử vong sốc phản vệ do thuốc cản quang tĩnh mạch không hồi phục trên bệnh nhân theo dõi ung thư cổ tử cung tái phát sau mổ 4 tháng tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An.
Bệnh nhân L.mắc ung thư cổ tử cung giai đoạn IB1 được phẫu thuật cắt tử cung toàn bộ và phần phụ tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An tháng 5/2017. Giải phẫu bệnh ung thư biểu mô tế bào vảy xâm lấn trên ½ lớp cơ, hạch chậu âm tính, parameche âm tính.
Sau mổ 4 tháng, bệnh nhân có triệu chứng bệnh trở lại: ra máu âm đạo, đến khám lại tại Bệnh viện Ung bướu Nghệ An thấy khả năng nghi ngờ tái phát, cần chuyển đến Bệnh viện K chẩn đoán và điều trị tiếp.
Ngày 21/9/2017, Bệnh viện Ung bướu Nghệ An chuyển tuyến đến Bệnh viện K với triệu chứng đau hạ vị kèm ra máu âm đạo bất thường, nghi tái phát, cần khám và xạ trị.
Ngày 28/9, Bệnh nhân đến Bệnh viện K khám và chẩn đoán theo dõi ung thư cổ tử cung tái phát, được chỉ định làm xét nghiệm chỉ điểm khối u (định lượng CEA125, SCC, HE4), X-Quang phổi thẳng, siêu âm tử cung phần phụ, chụp cắt lớp vi tính bụng - tiểu khung thường quy (16 dãy) có tiêm thuốc cản quang.
Vào 9h56’ ngày 29/9 bệnh nhân được tiêm thuốc cản quang Ultravist 80ml tại Trung tâm Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh viện K. Sau khi chụp xong bệnh nhân được theo dõi tại khoa.
Vào 10h05’ ngày 29/9 bệnh nhân đột ngột xuất hiện tức ngực, khó thở, da ngứa, mẩn đỏ. Bệnh nhân tỉnh, da đỏ, xung huyết, phù nề, khó thở, nhịp thở 26 lần/phút, không tiếng rít thanh quản, mạch 100 lần/phút, Huyết áp 80/60 mmHg, SpO2 95%, tim đều, phổi rì rào phế nang rõ, không rales. Chẩn đoán sốc phản vệ do thuốc cản quang/ Ung thư cổ tử cung đã phẫu thuật. Bệnh nhân ngay lập tức được xử trí tại chỗ và vận chuyển sang khoa Hồi sức cấp cứu (kế bên), bệnh nhân được xử trí thở oxy, adrenalin truyền tĩnh mạch, Corticoide, kháng H1.
Sau 5 giờ cấp cứu, bệnh nhân tỉnh, da đỡ đỏ, xung huyết, còn tức ngực, mạch 100 lần/phút, huyết áp 105/80 mmHg, SpO2 95 %, tim đều, phổi không rales. Bệnh nhân được hội chẩn trong khoa Hồi sức cấp cứu với kết luận tình trạng bệnh nhân nặng, chưa thoát sốc, cần được duy trì điều trị và theo dõi sát. Chỉ định cận lâm sàng, công thức máu, khí máu, sinh hóa máu, điện tim đồ.
Trong đêm, bệnh nhân được duy trì adrenalin 0,2 µg/kg/phút. Tình trạng hô hấp huyết động tạm ổn định. Huyết áp 85-110/60-70 mmHg, mạch 90-115 lần/phút, SpO¬2 98-100%, không sốt, tiểu 2.000 ml/23h.
Bệnh nhân trong đêm tương đối ổn định nhưng đột ngột vào 8h ngày 30/9 bệnh nhân xuất hiện khó thở nhiều, ho khạc đờm bọt hồng, phổi nhiều rales ẩm lan đến đỉnh, tim nhanh đều 160 lần/phút, huyết áp 40/20 mmHg, SpO2 60%. Tiến hành cấp cứu hô hấp tuần hoàn, tình trạng bệnh không cải thiện bệnh nhân tử vong lúc 9h30’ ngày 30/9/2017.
Shock phản vệ: sự cố không mong muốn trong y khoa
Theo TS.BS Nguyễn Tiến Quang (Bệnh viện K Trung ương), sốc phản vệ là phản ứng dị ứng hệ thống cấp, nguy kịch và dễ nguy cơ tử vong, phát sinh khi có sự xâm nhập của dị nguyên vào cơ thể. Sốc phản vệ có đặc điểm tăng tính thấm thành mạch, phù nề, xuất tiết niêm mạc và co thắt cơ trơn ( phế quản và ruột ) dẫn đến truỵ tim mạch, suy hô hấp và rất dễ gây tử vong.
Shock phản vệ 2 pha là shock phản vệ tái phát sau khi hết triệu chứng ban đầu, mà không tiếp xúc lại với chất gây dị ứng, chiếm tỉ lệ khoảng 20% các trường hợp shock phản vệ. Shock phản vệ pha 2 thường quay lại sau 1-8 giờ, có thể kéo dài 5 – 32 giờ. Độ nặng của shock phụ thuộc vào mức độ nhạy cảm của từng cá thể, hàm lượng, thời gian và tốc độ hấp thu các kháng nguyên. Phần lớn tử vong do shock phản vệ là không thể dự báo trước được.
Dị nguyên gây shock phản vệ thường có 4 nhóm chính: Thuốc (dị nguyên phổ biến nhất, trong đó shock phản vệ do thuốc cản quang chiếm tỉ lệ 1/5000); Thức ăn; Nọc côn trùng; dị nguyên theo đường hô hấp (ví dụ phấn hoa).
Các con đường đưa dị nguyên vào hay gặp nhất là đường tiêm (tĩnh mạch, tiêm bắp và tiêm dưới da) và đường tiêu hoá, trong đó đường tiêm tĩnh mạch là phổ biến nhất.
Sốc phản vệ chỉ xảy ra ở những cơ thể có “cơ địa dị ứng”, nghĩa là với cùng một liều lượng, tốc độ và thời gian hấp thụ, phơi nhiễm, shock có thể xảy ra ở người này nhưng chưa chắc xảy ra ở cơ thể khác. "Cơ địa” là đặc tính cơ thể của từng người, đây là yếu tố người thầy thuốc điều trị không thể xác định và tiên đoán. Do vậy không nên nghi ngờ hay vội vàng giải thích thiếu thận trọng các sự cố y khoa, đặc biệt các sự cố gây chết người do sốc phản vệ, là vì sai sót hay quy trách nhiệm cho người thầy thuốc.
“Phải nói rằng khi xảy ra những sự cố nghiêm trọng như vậy, nhất là khi shock phản vệ cướp đi tính mạng của người bệnh, luôn là nỗi kinh hoàng, ám ảnh và là điều không mong muốn, ngoài năng lực dự đoán của tất cả các bác sĩ” - TS Nguyễn Tiến Quang nhấn mạnh.
Theo một thống kê quốc tế, tỉ lệ shock phản vệ do thuốc cản quang Ultravist dùng trong chẩn đoán hình ảnh là 10/1142 bệnh nhân, trong đó có tới 7 bệnh nhân tử vong trong vòng khoảng 5 ngày sau xuất hiện shock.
Đáng chú ý, theo TS Quang, hiện nay, do số bệnh nhân có chỉ định tiêm thuốc cản quang trong chẩn đoán hình ảnh tăng nên tần suất bệnh nhân bị sốc phản vệ do thuốc cản quang nói chung và Ultravist nói riêng cũng tăng. Nhiều trường hợp mặc dù phát hiện sớm, xử trí chính xác và kịp thời cũng không tránh khỏi tử vong.
“Đó là lý do bệnh nhân luôn phải kí cam kết trước mọi thủ thuật, can thiệp và trong nghề Y không thầy thuốc nào có thể nói trước được 100% các can thiệp chẩn đoán, điều trị sẽ thành công, không xảy ra tai biến” - BS Quang giải thích.
Hoàng Hải
Ý kiến bạn đọc