Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông:: Mô hình đào tạo số một của Việt Nam!

19:41, 07/03/2013
|

(VnMedia) - Phát biểu tại Lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông vừa diễn ra sáng nay, 7/3, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đánh giá, đây là mô hình đào tạo gắn với sản xuất kinh doanh hiệu quả số một tại Việt Nam hiện giờ.

 

>> "Cần nhân rộng mô hình đào tạo của Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông” 

Sáng 7/3/2013, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông, đơn vị thành viên của Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT) đã long trọng tổ chức Lễ đón nhận danh hiệu Danh hiệu Anh hùng Lao động do Chủ tịch nước phong tặng vì đã có thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động sáng tạo từ năm 2002 đến năm 2011, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.
 
Tiền thân là Trường Bưu điện - Vô tuyến điện được thành lập năm 1953, sau này là Trường Đại học Thông tin Liên lạc, với bề dày truyền thống với 60 năm xây dựng và phát triển, hiện nay Học viện là tổ chức Nghiên cứu Đào tạo hàng đầu trong lĩnh vực CNTT- Truyền thông.
Năm 1996, trước yêu cầu phát triển nguồn nhân lực và xây dựng tiềm lực khoa học công nghệ phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Hội nghị lần 2 BCHTW Đảng khóa VIII đã thí điểm cho phép triển khai mô hình gắn kết giữa Nghiên cứu với Đào tạo và Sản xuất kinh doanh trong một số Tổng công ty lớn của Nhà nước. VNPT đã tiên phong, chủ động xây dựng Đề án và trình Chính phủ xin thành lập Học viện Công nghệ BCVT trên cơ sở sáp nhập các đơn vị Nghiên cứu, Đào tạo của Ngành Bưu điện

 

 Ảnh minh họa

 Thay mặt lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã trao tặng danh hiệu Anh hùng Lao động cho Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông.


Được thành lập vào tháng 7/1997, Học viện là đơn vị đầu tiên được Nhà nước cho phép triển khai thí điểm mô hình nhà trường nằm trong doanh nghiệp nhằm tạo sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo, nghiên cứu khoa học và sản xuất - kinh doanh. 
Học viện thực hiện mô hình gắn kết giữa Đào tạo (trường Đại học), Nghiên cứu khoa học (Các Viện nghiên cứu đầu ngành) và Sản xuất kinh doanh (mạng lưới của doanh nghiệp và nhu cầu xã hội). Hoạt động nghiên cứu của Học viện được thực hiện bởi các Viện nghiên cứu chuyên ngành với 100% đề tài đều do doanh nghiệp đặt hàng và kết quả nghiên cứu đều phải được áp dụng trực tiếp vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp (Tập đoàn VNPT) nên hoạt động nghiên cứu của Học viện vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tiễn và luôn theo kịp với các thay đổi của công nghệ, luôn bám sát với thực tiễn của mạng lưới.
 
Những năm qua, Học viện đã thực hiện hàng nghìn hợp đồng khoa học và chuyển giao công nghệ với các đơn vị trong và ngoài nước. Nguồn thu từ hoạt động khoa học công nghệ của Học viện hiện đã đạt gần 30% tổng nguồn thu, vượt tới 25% chỉ tiêu đề ra của Chính phủ tại Nghị quyết 14/2005/NQ-CP cho các trường Đại học Việt Nam vào năm 2020.
 
Với những thành tựu đã đạt được trong thời gian qua, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đánh giá mô hình Học viên là mô hình của tổ chức nghiên cứu và đào tạo mới, tiêu biểu ở Việt Nam, là đơn vị nghiên cứu, đào tạo công lập chất lượng cao, hoạt động hoàn toàn tự chủ và phi lợii nhuận; Mô hình Học viện Công nghệ BCVT khác với hai mô hình chủ yếu hiện nay là mô hình trường Đại học công lập hoạt động còn chưa được thật sự tự chủ và mô hình trường Đại học tư thục hoạt động còn vì mục tiêu lợi nhuận.


Học viện được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép đào tạo: 4 ngành ở trình độ Tiến sỹ, 5 ngành ở trình độ Thạc sỹ, 8 ngành ở trình độ Đại học và Cao đẳng. Bên cạnh những ngành đào tạo có uy tín như: Điện tử, Viễn thông, CNTT… Học viện đã chủ động mở thêm một số ngành đào tạo như: Khoa học máy tính, Mạng máy tính và truyền dữ liệu ở trình độ sau Đại học; ngành Công nghệ Đa phương tiện, chuyên ngành An toàn Thông tin ở trình độ Đại học nhằm cung cấp nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu về an toàn dữ liệu, bảo mật thông tin cho các ngành, các tổ chức Chính phủ, doanh nghiệp cũng như nguồn nhân lực cho thời đại thông tin số, thời kỳ hội tụ giữa viễn thông, CNTT, Internet và Phát thanh truyền hình của đất nước trong tương lai.
 
Hai cơ sở đào tạo của học viện tại Hà nội và TP. Hồ Chí Minh với 13 khoa đào tạo Đại học và sau Đại học có quy mô đào tạo trên 28 nghìn sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh. Đến nay Học viện đã đào tạo được 45 tiến sỹ, gần 1000 thạc sỹ, gần 10 nghìn kỹ sư, cử nhân,  hơn 250 nghìn lượt cán bộ đã được bồi dưỡng tại Học viện; Trên 2900 đề tài nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ các cấp đã được thực hiện; tỷ lệ học sinh, sinh viên ra trường có việc làm phù hợp với ngành được đào tạo đạt 96,8%... là các kết quả bước đầu của Học viện từ khi thành lập năm 1997 đến nay.


 Ảnh minh họa

Danh hiệu Anh hùng Lao động của Học viện được trao vì thành tích đặc biệt xuất sắc trong lao động sáng tạo từ năm 2002 đến năm 2011, góp phần vào sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.


Học viện vừa tập trung, chú trọng đào tạo chất lượng cao, vừa tham gia đào tạo trên diện rộng để góp phần nâng cao mặt bằng dân trí với các hình thức đào tạo đa dạng. Từ năm 2005 Học viện đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép triển khai đào tạo từ xa thông qua mạng Tin học Viễn thông. Từ năm 2012, Học viện tham gia đào tạo nghề trình độ Cao đẳng cho một số ngành thuộc lĩnh vực CNTT và Viễn thông (ICT) đạt trình độ khu vực và thế giới, nhằm góp phần đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực CNTT của Việt Nam như đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại “Đề án đưa Việt Nam sớm trở thành nước mạnh về CNTT”, và tại “Đề án quy hoạch nguồn nhân lực CNTT Việt Nam đến năm 2020”.
 
Trong lĩnh vực hợp tác quốc tế, Học viện đã và đang hợp tác, liên kết với nhiều trường Đại học, các Viện nghiên cứu tiên tiến trên thế giới từ Hoa kỳ, Pháp, Đức, Nhật Bản, Nga, Hàn quốc, Cộng hòa Áo... Bên cạnh đó, Học viện còn có quan hệ hợp tác và liên kết với các nhà công nghệ, các hãng sản xuất thiết bị Viễn thông, các nhà khai thác, công ty phần mềm như Ericsson, Siemens, Nokia, Motorola, Singtel, China Telecom, Orange, AT&T, Spring, DoCoMo, Microsoft, Oracle, Google, Yahoo, SAP… Đối với một số nước trong khu vực như Lào, Campuchia, Myanmar thì Học viện là đơn vị chủ lực trong việc hợp tác, hỗ trợ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực cho các cán bộ chủ chốt của ngành Bưu chính Viễn thông các nước bạn, qua đó góp phần nâng cao ảnh hưởng của Việt Nam trong khu vực.
 
Phát biểu tại buổi lễ, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân đã đánh giá, hiện nay Học viện là mô hình đào tạo gắn với sản xuất kinh doanh hiệu quả số một tại Việt Nam. Phó Thủ tướng cũng đề nghị Học viện tiếp tục nghiên cứu, đổi mới phương pháp giảng dạy; có lộ trình và giải pháp để nâng cao tỷ lệ giảng viên là Tiến sĩ; thực hiện tốt cơ chế khuyến khích, động viên các nghiên cứu viên tham gia giảng dạy; mở rộng mô hình sinh viên đánh giá giáo viên trong tất cả các môn học…
 
Phát biểu tại buổi Lễ, ông Phạm Long Trận, Chủ tịch Hội đồng Thành viên VNPT khẳng định: việc Học viện được vinh dự đón nhận danh hiệu Anh hùng Lao động không chỉ là niềm tự hào của riêng Học viện mà của cả Tập đoàn. Danh hiệu Anh hùng Lao động mà Đảng, Nhà nước phong tặng là niềm vinh dự, tự hào của các thế hệ CBCNV Học viện, thể hiện sự tiếp nối xứng đáng truyền thống 60 năm xây dựng và phát triển của đơn vị đào tạo nguồn nhân lực hàng đầu của ngành Thông tin và Truyền thông. Chủ tịch Phạm Long Trận tin tưởng Học viện sẽ tiếp tục phát huy truyền thống, niềm tự hào của đơn vị Anh hùng Lao động trong chặng đường phát triển  sắp tới.

 

Trước đó, tại buổi làm việc ngày 6/3 với Học viện, Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân nhấn mạnh, trong bối cảnh khó khăn chung, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông đã tự tạo mô hình mới có nhiều nội dung cho các đơn vị khác học tập. Phó Thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân khẳng định: "Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông xứng đáng là đơn vị đào tạo được Chủ tịch nước tặng danh hiệu Anh hùng Lao động". Theo Phó Thủ tướng, một thành công lớn cũng là sự chuyển biến quan trọng của Học viện là dần tự chủ về tài chính, từ chỗ năm 2006, VNPT phải cấp gần 54 tỷ đồng, chiếm khoảng 32% tổng kinh phí hoạt động của Học viện thì đến năm 2012, VNPT không còn cấp trực tiếp tiền cho Học viện.

Phó Thủ tướng đánh giá rất cao kết quả hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện. Học viện đã xác lập được một cơ cấu tài chính tốt, với 32% nguồn thu từ các hoạt động nghiên cứu khóa học. Theo Phó Thủ tướng, đây là tỷ lệ thu từ nghiên cứu khoa học có lẽ cao nhất cả nước. Hiện mức bình quân của các trường đại học trong cả nước khoảng 5 - 6% và những trường khác mạnh cũng chỉ trên dưới 10%.

Đối với hoạt động đào tạo, Phó Thủ tướng ghi nhận những nỗ lực của tập thể cán bộ, giảng viên, nghiên cứu viên của Học viện. Đơn cử như, cùng với việc thực hiện tốt phương châm đào tạo theo nhu cầu xã hội, Học viện đã hoàn thiện cơ chế quản lý, gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học, gắn đào tạo với thực tiễn; đã có chính sách khuyến khích đội ngũ nghiên cứu viên tham gia giảng dạy; duy trì mức thu nhập tương đối khá cho CBCNV; hình thành được hệ thống kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh viên, học viện đảm bảo công bằng, minh bạch; thí điểm cho sinh viên đánh giá giảng viên…


Hiền Mai

Ý kiến bạn đọc