Tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái, thù địch chống phá Đảng; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

0
0

 - Chưa bao giờ cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái thù địch; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng lại có tính thời sự, cấp thiết và nóng bỏng như hiện nay. Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là bảo vệ những giá trị lịch sử, bản chất cách mạng, khoa học, nhân văn của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản; chính sách, pháp luật của Nhà nước, làm cho hệ tư tưởng của Đảng cầm quyền thấm sâu vào đời sống chính trị, tinh thần của xã hội. Bởi vậy, tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái thù địch chống phá Đảng, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là nội dung cơ bản, hệ trọng, sống còn của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đồng thời là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân. 

 

Đặc trưng mô hình Chủ nghĩa xã hội Việt Nam

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu mô hình Chủ nghĩa xã hội (CNXH) Việt Nam với 8 đặc trưng cơ bản: 

Đặc trưng thứ nhất: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh

Đây là đặc trưng tổng quát nhất chi phối các đặc trưng khác, bởi nó thể hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Ở nước ta, tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội phải được biểu hiện cụ thể thiết thực, trên cơ sở kế thừa quan điểm Mác-Lênin về mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, đồng thời vận dụng sáng tạo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho dân giàu, nước mạnh…là công bằng, hợp lý, mọi người đều được hưởng quyền tự do, dân chủ, được sống cuộc đời hạnh phúc…
Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng phải hướng tới việc hiện thực hóa đầy đủ, đồng bộ hệ mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng văn minh. Tư tưởng xuyên suốt của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đối với dân tộc Việt Nam, chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh thật sự. 

Đặc trưng thứ hai: do nhân dân làm chủ

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện ở bản chất ưu việt chính trị của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa trên cơ sở kế thừa giá trị quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin sự nghiệp cách mạng là của quần chúng; kế thừa những giá trị trong tư tưởng truyền thống của dân tộc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã tiếp tục khẳng định: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân. Dân chủ phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mọi cấp, trên tất cả các lĩnh vực thông qua hoạt động của Nhà nước do nhân dân bầu ra và các hình thức dân chủ trực tiếp…”.

Đặc trưng thứ ba: có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu.

Đây là đặc trưng thể hiện tính ưu việt trên lĩnh vực kinh tế của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng so với các chế độ xã hội khác.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) tiếp tục khẳng định: Những mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khi bàn về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế.

Đặc trưng thứ tư: có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Tính ưu việt về tiến tiến của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện khái quát, nhân văn của văn hóa nhân loại; ở việc giữ gìn bản sắc dân tộc (những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc Việt Nam: chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, truyền thống đoàn kết và nhân ái, ý thức về độc lập, tự do, tự cường dân tộc...).

Xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, mang đậm bản sắc dân tộc đòi hỏi vừa phải tiếp thu những giá trị của tinh hoa văn hóa nhân loại, vừa phải kế thừa, phát triển bản sắc văn hóa của các tộc người Việt Nam, xây dựng một nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. 

Đặc trưng thứ năm: con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện.

Tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ được thể hiện trong đặc trưng tổng quát dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mà còn được thể hiện qua đặc trưng về con người trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Về phương diện con người, chủ nghĩa xã hội đồng nghĩa với chủ nghĩa nhân văn, nhân đạo: tất cả vì con người, cho con người và phát triển con người toàn diện.

Đặc trưng thứ sáu: các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.

Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt trong chính sách dân tộc, giải quyết đúng các quan hệ dân tộc (theo nghĩa hẹp là quan hệ giữa các tộc người) trong quốc gia đa dân tộc Việt Nam.

Thực hiện 25 năm đổi mới đất nước đã và đang chứng minh tính ưu việt trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, chứng minh tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội trong giải quyết các quan hệ dân tộc ở Việt Nam. Nhờ đó đã và đang phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tính đồng thuận trong cộng đồng 54 dân tộc anh em, chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù địch.

Đặc trưng thứ bảy: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng thể hiện trong tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.

Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung và phát triển) đã chỉ rõ tính ưu việt của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đang hướng tới xây dựng. Đó là: Nhà nước gắn bó chặt chẽ với nhân dân, thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân và chịu sự giám sát của nhân dân; có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vô trách nhiệm, lộng quyền, xâm phạm quyền dân chủ của công dân…

Đặc trưng thứ tám: có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.

Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đang xây dựng không chỉ thể hiện tính ưu việt trong các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn thể hiện trong quan hệ đối ngoại, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.

Việt Nam luôn luôn khẳng định quan hệ hữu nghị và hợp tác giữ nhân dân ta và nhân dân các nước trên thế giới. Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế…Đảng và Nhà nước ta chủ trương hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị-xã hội khác nhau trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế.

Các đặc trưng của chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta xây dựng được nêu trong Dự thảo Cương lĩnh (bổ sung, phát triển) là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi mới nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tiễn Việt Nam trong điều kiện hiện nay. Đó là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ biến” và “cái đặc thù,” cái chung và cái riêng để tạo nên một mô hình: chủ nghĩa xã hội Việt Nam.

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (Ảnh: TTXVN)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII Đảng Cộng sản Việt Nam (Ảnh: TTXVN)

05 bài học kinh nghiệm được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII

Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, trực tiếp là 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Đại hội XIII đã rút ra 5 bài học kinh nghiệm, và trong mỗi bài học kinh nghiệm, đại hội đều có những nhận thức mới. 

Bài học thứ nhất về xây dựng Đảng, Đại hội xác định: Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng phải được triển khai quyết liệt, toàn diện, đồng bộ, thường xuyên cả về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; thường xuyên củng cố, tăng cường đoàn kết trong Đảng và hệ thống chính trị; thực hiện nghiêm các nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, thường xuyên đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng Nhà nước và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, toàn diện; hoàn thiện cơ chế kiểm soát chặt chẽ quyền lực; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Công tác cán bộ phải thực sự là “then chốt của then chốt”, tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; phát huy trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu, nhất là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.

Bài học thứ hai về dân, Đại hội xác định: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện nguyên tắc “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu, củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa.
Điểm mới của bài học này là phải thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”, “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; nhấn mạnh lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

Bài học thứ ba về lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện, Đại hội xác định: Trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực, có bước đi phù hợp, phát huy mọi nguồn lực, động lực và tính ưu việt của chế độ xã hội; kịp thời tháo gỡ các điểm nghẽn; đề cao trách nhiệm người đứng đầu gắn liền với phát huy sức mạnh đồng bộ của hệ thống chính trị, giữ vững kỷ cương; coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận; thực hiện tốt sự phối, kết hợp trong lãnh đạo, quản lý, điều hành; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế; tạo đột phá để phát triển.

Điểm mới của bài học này là trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện phải có quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, năng động, sáng tạo, có bước đi phù hợp; coi trọng chất lượng và hiệu quả thực tế.

Bài học thứ tư về thể chế và giải quyết các mối quan hệ: tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển, bảo đảm hài hòa giữa kế thừa và đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, văn hóa, xã hội; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, con người, giải quyết các vấn đề xã hội, bảo vệ tài nguyên, môi trường; giữa phát triển kinh tế-xã hội với bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữa độc lập, tự chủ với tăng cường đối ngoại, hội nhập quốc tế; thực sự coi trọng, phát huy hiệu quả vai trò của giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trong phát triển đất nước.

Bài học thứ năm về quốc phòng, an ninh, đối ngoại, Đại hội xác định: chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ; kiên quyết, kiên trì bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc đi đôi với giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường; xử lý đúng đắn, hiệu quả mối quan hệ với các nước lớn và các nước láng giềng, đánh giá đúng xu thế, nắm bắt trúng thời cơ; phát huy hiệu quả sức mạnh tổng hợp của đất nước kết hợp với sức mạnh của thời đại; khai thác, sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.

Điểm mới của bài học này là nhấn mạnh chủ động nghiên cứu, nắm bắt, dự báo đúng tình hình, không để bị động, bất ngờ, "chủ động, tích cực hội nhập quốc tế toàn diện”.

10 mối quan hệ lớn được đề cập trinh Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng

Các mối quan hệ lớn được xác định trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng bao gồm:

- Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển.
- Giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị.
- Giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
- Giữa nhà nước, thị trường và xã hội.
- Giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
- Giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
- Giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
- Giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ.
- Giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội.

Văn kiện Đại hội XIII cũng nhấn mạnh, đó là những mối quan hệ lớn, phản ánh các quy luật mang tính biện chứng, những vấn đề lý luận cốt lõi về đường lối đổi mới của Đảng ta, cần tiếp tục được bổ sung, hoàn thiện và phát triển phù hợp với thay đổi của thực tiễn; đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực hiện thật tốt, có hiệu quả.

Các mối quan hệ lớn phản ánh quy luật có tính biện chứng, là những vấn đề cốt lõi trong đường lối đổi mới của Đảng; đó là nhận thức mang tầm lý luận, thể hiện bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng ta. Đại hội XIII của Đảng khi xác định 5 quan điểm chỉ đạo cơ bản, 12 định hướng phát triển và 10 mối quan hệ lớn đã làm mới, làm phong phú, cụ thể hơn lý luận đổi mới, lý luận phát triển, đem lại câu trả lời khoa học về chủ nghĩa xã hội Việt Nam, con đường và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Việc nhận thức và giải quyết các mối quan hệ lớn đã được Đảng ta thực hiện trong mối liên hệ hữu cơ với nhận thức và từng bước hoàn thiện 8 đặc trưng bản chất của chủ nghĩa xã hội Việt Nam cũng như 8 phương hướng lớn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ đã tạo ra bước chuyển biến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại. Chúng ta đã giữ vững được vai trò lãnh đạo của Đảng, tạo ra sự ổn định về chính trị trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước. Người dân tin tưởng vào đường lối đổi mới, vào sự lãnh đạo của Đảng, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Hệ thống chính trị và khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố, tăng cường.

Giá trị cốt lõi trong các mối quan hệ lớn cần nắm vững và xử lý thể hiện trước hết ở mối quan hệ lớn thứ nhất: Giữa đổi mới, ổn định và phát triển. Đây là mối quan hệ có vị trí tổng quát, bao trùm các mối quan hệ còn lại, đồng thời trong mối quan hệ này, ổn định là tiền đề và điều kiện, đổi mới là động lực, là phương thức, con đường tất yếu phải đi và phát triển là mục đích. Do vậy, giữ vững được ổn định, nhất là ổn định chính trị sẽ thực hiện được con đường đổi mới và mục đích phát triển. Để giữ vững ổn định (chính trị), nhất định phải nắm vững và giải quyết 9 mối quan hệ tiếp theo.

Các mối quan hệ còn lại phản ánh toàn diện đổi mới trên các lĩnh vực, các khía cạnh của đời sống xã hội, trong đó tính đồng bộ giữa đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị đã được Đảng ta nhận thức ngày càng đầy đủ, nhất là đổi mới chính trị, hệ thống chính trị phải đóng vai trò bảo đảm chính trị cho đổi mới kinh tế, đồng thời thúc đẩy kinh tế phát triển, không cản trở sự phát triển của kinh tế.

Nắm vững cơ sở lý luận để phá tan mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, cơ hội hiện nay.

 

Hiện nay, các thế lực thù địch, cơ hội chính trị đang sử dụng mọi âm mưu, thủ đoạn để chống phá Đảng, Nhà nước ta với cấp độ ngày càng tinh vi. Chúng lợi dụng không gian mạng, mạng xã hội để tuyên truyền xuyên tạc đường lối lãnh đạo của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, họ phủ nhận nền tảng tư tưởng của Đảng; bác bỏ chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ lợi dụng tình hình dư luận xã hội đang bức xúc về những tệ tham nhũng, tiêu cực, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, cán bộ công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ cấp chiến lược, rồi quy chụp mọi khuyết điểm, sai lầm, tiêu cực trong chủ trương, đường lối đổi mới cán bộ và công tác cán bộ của Đảng.

Hơn thế nữa, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội tuyên truyền xuyên tạc Cương lĩnh, đường lối lãnh đạo của của Đảng Cộng sản Việt Nam và vai trò quản lý của Nhà nước của chính quyền các cấp, với những thủ đoạn rất tinh vi, xảo quyệt. Triệt để tấn công vào nội bộ ta một cách toàn diện cả về tổ chức, con người và nhu cầu của đời sống xã hội như tín ngưỡng, tôn giáo; lợi dụng một số vụ việc phức tạp, nhạy cảm, sai phạm, khuyết điểm của một số cán bộ, đảng viên để kích động, chia rẽ nội bộ, bôi nhọ lãnh đạo cấp cao. Nếu cán bộ, đảng viên không có bản lĩnh chính trị vững vàng sẽ rất dễ bị tác động dẫn tới hoang mang, dao động, không phân biệt được đúng - sai, thiếu tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, vào con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thậm chí có hành động làm trái với Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây chính là những mầm mống bên trong rất nguy hiểm, đe dọa đến nền tảng tư tưởng của Đảng.

Âm mưu, thủ đoạn và phương thức chống phá của các phần tử cơ hội âm thầm và lâu dài nhưng tác hại thực sự rất khó lường; Chúng đòi xóa bỏ nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là là nguyên tắc tập trung dân chủ; vu cáo Đảng cầm quyền chiếm quyền của dân, vi phạm dân chủ, nhân quyền, “độc đoán, đảng trị”; đối lập Đảng với Nhà nước và đối lập Đảng, Nhà nước với nhân dân... Cùng với đó, các thế lực thù địch còn lôi kéo, kích động một bộ phận người dân và cả một số cán bộ hoặc lợi dụng tự do tín ngưỡng, tôn giáo vào các mục đích sai trái, bất hợp pháp, gây ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội... Đây cũng chính là những vấn đề cần được nhận diện đầy đủ để có biện pháp, phương hướng xử lý, đấu tranh phù hợp, hiệu quả.

Trước những luận điệu phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng từ các thế lực phản động, thù địch, chúng ta đấu tranh bác bỏ bằng những luận cứ thật sự khoa học, để làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của chúng. Trước hết, xuất phát từ luận điểm khách quan, khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò lãnh đạo của chính đảng vô sản trong tiến trình cách mạng.

Những đặc trưng mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam, cùng với 5 bài học kinh nghiệm và 10 mối quan hệ lớn đã được Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đề cập chính là cơ sở lý luận vững chắc và những bài học thực tiễn đầy giá trị để chúng ta đấu tranh phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái thù địch; bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. 

Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, cần thấm nhuần và hiểu rõ một trong những đặc điểm quan trọng nhất của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ. Quyền làm chủ của nhân dân được khẳng định và bảo vệ bằng hiến pháp và pháp luật.

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân”. Việc “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” giờ đây không chỉ là phương châm, mục tiêu của Đảng mà còn là động lực để phát huy nguồn lực từ Nhân dân, khơi dậy sức mạnh toàn dân, góp phần xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa vì dân.

Sau hơn 35 năm đổi mới, “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, được mọi tầng lớp Nhân dân đồng tình ủng hộ và ngày càng phát huy hiệu quả trên thực tế. Để thực sự phát huy quyền làm chủ của Nhân dân hơn nữa, Đại hội XIII đã bổ sung nội dung “dân giám sát”, “dân thụ hưởng”. Đây là sự phát triển tư duy lý luận, hoàn thiện chủ trương của Đảng về dân chủ. Sự phát triển, hoàn thiện đó có ý nghĩa thiết thực, quan trọng trong xây dựng và phát huy nguồn lực con người, là động lực, yếu tố sống còn, có ý nghĩa quyết định đối với công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giai đoạn tiếp theo. Theo đó, ngày 25-10-2021, Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII đã ban hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá”, trong đó nhấn mạnh phải thực hiện có hiệu quả phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.

“Dân giám sát” là Nhân dân theo dõi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện, kết quả thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án, công việc thực hiện. Giám sát cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình có đúng, có tuân thủ đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật không bằng hình thức trực tiếp, hoặc gián tiếp. Xuất phát từ thực tế, khó phân biệt rõ ràng, rành mạch giữa hoạt động kiểm tra với hoạt động giám sát; lúc nào, việc gì thì kiểm tra và lúc nào, việc gì thì giám sát. Chính vì thế, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung khâu “dân giám sát” vào phương châm để tạo thuận lợi cũng như có cơ sở pháp lý để tổ chức thực hiện hiệu quả nhất.

“Dân thụ hưởng” tức là Nhân dân được nhận, hưởng thụ thành quả, kết quả của quá trình phát triển về đời sống vật chất, tinh thần mà các chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật mang lại sau quá trình tổ chức, thực hiện. Đồng thời, Nhân dân thấy được mục đích, động lực thực sự, cuối cùng của chủ trương, chính sách, pháp luật mà Đảng, Nhà nước đề ra và tổ chức thực hiện đều vì Nhân dân, bảo đảm quyền con người được thực hiện một cách triệt để, lan tỏa những giá trị nhân văn, tiến bộ đúng với bản chất chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Đây là sự phát triển tư duy lý luận, hoàn thiện chủ trương của Đảng về quyền dân chủ của người dân; qua đó, tiếp tục khẳng định Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước liên quan đến cuộc sống Nhân dân, vận mệnh đất nước, dân tộc đều được phổ biến đến quần chúng Nhân dân thông qua nhiều hình thức khác nhau, nhất là tuyên truyền để dân hiểu, nắm rõ, tạo sự đồng thuận trong Nhân dân.

Đặc biệt, vai trò lãnh đạo của Đảng được chứng minh bằng lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước. Nhưng sự lãnh đạo của Đảng lấy nguyên tắc dân chủ làm đầu trong toàn bộ hoạt động nội bộ của Đảng cũng như trong mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân. Đảng chỉ đạo, lãnh đạo, nhưng Đảng không đứng trên pháp luật, tuân thủ và đảm bảo dân chủ cho người dân và dân chủ trong Đảng.

Trong điều kiện hiện nay, phát huy dân chủ trong Đảng theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đóng vai trò quan trọng trong xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, đồng thời là cơ sở để ngày càng thực hành thực chất và mở rộng dân chủ trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.  

Trên cơ sở kế thừa và phát triển các quan điểm về dân chủ của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ”(1) và “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(2). Trong suốt quá hoạt động cách mạng, Người luôn quan tâm đến việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Theo Người, quyền dân chủ được thể hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, như chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội…, mà hạt nhân là quyền con người, quyền công dân. Trong điều kiện xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay, bảo đảm vai trò lãnh đạo toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố có ý nghĩa quyết định xây dựng thành công nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ trong Đảng là hạt nhân để mở rộng dân chủ trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Theo ý nghĩa đó, dân chủ trong Đảng là một trong những cơ sở quan trọng để Đảng hoàn thành nhiệm vụ lãnh đạo đối với toàn thể dân tộc Việt Nam. Một xã hội muốn phát triển, văn minh và tiến bộ phải có dân chủ làm động lực. Muốn thực hành dân chủ rộng rãi, trước hết phải thực hành dân chủ trong Đảng. Khi dân chủ được phát huy, nội bộ tổ chức đảng có sự thống nhất về ý chí và hành động, thực sự trở thành tổ chức chính trị tiên phong và là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp, của dân tộc. Nếu thiếu dân chủ trong Đảng, trong nội bộ Đảng sẽ nảy sinh tình trạng chuyên quyền, độc đoán, quan liêu, đồng thời, không phát huy được tính chủ động, sáng tạo, sáng kiến của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Chính vì thế, trong hệ thống tổ chức và phương thức hoạt động của cấp ủy các cấp, nguyên tắc tập trung dân chủ cần được tuân thủ nghiêm túc; đồng thời, phải nhận thức và giải quyết một cách đúng đắn mối quan hệ giữa tập trung và dân chủ, giữa dân chủ và tập trung.
Nguyên tắc này cũng có mối quan hệ hữu cơ với đặc trưng thứ bảy của mô hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo.

5 bài học kinh nghiệm được đề cập trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII là công cụ, phương tiện sắc bén để giúp chúng ta chuẩn bị lực lượng về lý luận cũng như con người để đấu tranh chống lại những luận điệu sai trái của các thế lực thù địch. 

GS, TS Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh: TTXVN
GS, TS Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam. Ảnh: TTXVN

Trong thời gian qua, công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ đảng viên trong sạch, vững mạnh đã trở thành nhiệm vụ trọng tâm. Nổi bật nhất là công cuộc chống tham nhũng cho Tổng Bí thư chỉ đạo. Tính đến thời điểm hiện nay, hàng trăm cán bộ các cấp do sai phạm trong công tác đã bị xử lý, đem lại niềm tin cho mọi người dân.

Tổng Bí thư nêu rõ: Phòng, chống tham nhũng là cuộc đấu tranh ngay trong chính bản thân mỗi con người, trong mỗi cơ quan, tổ chức; liên quan đến lợi ích, chức vụ, danh vọng, uy tín của tổ chức, cá nhân. Vì vậy, phải có thái độ thật kiên quyết, không khoan nhượng và hành động thật quyết liệt, cụ thể, hiệu quả.

Phát huy kết quả và rút kinh nghiệm về công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng trong các giai đoạn trước, trong 10 năm gần đây (2012-2022), với việc thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực (trực thuộc Bộ Chính trị) đến nay, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng đã được Trung ương lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, bài bản, ngày càng đi vào chiều sâu, có bước tiến mạnh, đạt nhiều kết quả cụ thể, rất quan trọng, toàn diện, để lại dấu ấn tốt, tạo hiệu ứng tích cực, lan toả mạnh mẽ trong toàn xã hội, và thực sự "đã trở thành phong trào, xu thế không thể đảo ngược", được cán bộ, đảng viên và nhân dân đồng tình, ủng hộ, đánh giá cao, được bạn bè quốc tế ghi nhận. Tham nhũng từng bước đã được kiềm chế, ngăn chặn, góp phần quan trọng giữ vững ổn định chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, củng cố thêm niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta.

Theo kết quả điều tra dư luận xã hội do Ban Tuyên giáo Trung ương tiến hành mới đây, tuyệt đại đa số ý kiến của người dân (93%) bày tỏ tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; khiến cho mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực xấu, thù địch đều trở nên trơ trẽn, nực cười. Đó là thành công lớn trong công tác phòng, chống tham nhũng của chúng ta trong thời gian qua.

Công cuộc chống tham nhũng đã cho thấy rõ vai trò của Đảng giữ vị trí tiên phong, đi đầu, quyết liệt xử lý những trường hợp Đảng viên vi phạm, xử lý đúng người, đúng tội, không cả nể, không dung túng. Chỉ có sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng mới có thể làm trong sạch bộ máy, xây dựng một nhà nước pháp quyền vững mạnh của dân, do dân và vì dân.

Minh Thương

Ý kiến bạn đọc


Lời cảm ơn của gia đình Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng

Chiều 26/7, ông Nguyễn Trọng Trường, đại diện gia đình Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đọc Lời cảm ơn của gia đình Tổng Bí thư tại Lễ Truy điệu.

Bức tâm thư của Phu nhân Tổng Bí thư Lào gửi Phu nhân Tổng Bí thư

(VnMedia) - VnMedia xin đăng tải toàn văn bức tâm thư của Phu nhân Tổng Bí thư Lào Naly Sisoulith gửi Phu nhân Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Ngô Thị Mận.

Nhớ về một người Cộng sản chân chính

(VnMedia)- Mỗi khi nghĩ về Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là trong tôi hiện lên hình ảnh một người Cộng sản chân chính. Và, lúc này, tôi lại nhớ đến câu chuyện mẹ tôi vẫn kể trong những năm tháng bà còn sống về cha tôi - một người Cộng sản...

Cảnh báo chiêu trò lừa đảo tuyển người mẫu, cầu thủ nhí trên không gian mạng

(VnMedia) - Bộ Công an vừa phát đi cảnh báo về chiêu trò lừa đảo tuyển mẫu nhí, cầu thủ nhí, người đại diện thương hiệu nhằm chiếm đoạt tài sản qua không gian mạng.

Giá vàng đảo chiều tăng mạnh

(VnMedia) - Chốt phiên giao dịch rạng sáng nay (24/7), giá vàng giao ngay tại thị trường New York đã đảo chiều tăng mạnh hơn 13 USD/ounce. Trong nước, chiều qua, giá vàng miếng SJC vẫn duy trì ở mốc gần 80 triệu đồng/lượng ở chiều bán ra.