- Thuế tiêu thụ đặc biệt là một trong những công cụ giúp Nhà nước thực hiện chính sách quản lí, chính sách đầu tư đổi với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ.
Thuế tiêu thụ đặc biệt được hiểu như thế nào?
Thuế tiêu thụ đặc biệt là loại thuế gián thu đối với tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa, kinh doanh dịch vụ thuộc diện Nhà nước cần thiết điều tiết tiêu dùng. Thuế thu nhập đặc biệt do các cơ sở trực tiếp sản xuất ra hàng hoá đó nộp nhưng người tiêu dùng là người chịu thuế vì thuế được cộng vào giá bán.
Vì sao phải thu thuế tiêu thụ đặc biệt
Thuế tiêu thụ đặc biệt là một trong những công cụ giúp Nhà nước thực hiện chính sách quản lí, chính sách đầu tư đổi với các cơ sở sản xuất kinh doanh và nhập khẩu hàng hoá, dịch vụ; góp phần thúc đẩy sản xuất, kinh doanh đối với một so hàng hoá, dịch vụ;
Bên cạnh đó, Thuế tiêu thụ đặc biệt còn là một trong những công cụ kinh tế để Nhà nước điều tiết thu nhập của các tầng lớp dân cư có thu nhập cao, hướng dẫn tiêu dùng hợp lý
Hơn nữa, Thuế tiêu thụ đặc biệt là công cụ quan trọng được sử dụng nhằm ổn định và tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước
Đối tượng chịu thuế và không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
Theo Điều 2, Luật thuế thu nhập đặc biệt 2008 (sửa đổi 2014)và khoản 2 Nghị định 108/2015/NĐ-CP đưa ra một số mặt hàng chịu thuế thu nhập đặc biệt, từ đó chúng ta có thể thấy, Luật thuế thu nhập đặc biệt chia làm 2 đối tượng chịu thuế: Hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt và Dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bao gồm: Thuốc lá điếu, xì gà và chế phẩm khác từ cây thuốc lá dùng để hút, hít, nhai, ngửi, ngậm; Rượu; Bia; Xe ô tô dưới 24 chỗ, kể cả xe ô tô vừa chở người, vừa chở hàng loại có từ hai hàng ghế trở lên, có thiết kế vách ngăn cố định giữa khoang chở người và khoang chở hàng; Xe mô tô hai bánh, xe mô tô ba bánh có dung tích xi lanh trên 125cm3; Tàu bay, du thuyền (sử dụng cho mục đích dân dụng); Xăng các loại; Điều hoà nhiệt độ công suất từ 90.000 BTU trở xuống; Bài lá; Vàng mã, hàng mã (không bao gồm hàng mã là đồ chơi trẻ em, đồ dùng dạy học).
Tuy nhiên, cần lưu ý: Hàng hóa chịu thuế tiêu thụ đặc biệt phải là các sản phẩm hàng hóa hoàn chỉnh, không bao gồm bộ linh kiện để lắp ráp các hàng hóa này.
Dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bao gồm: Kinh doanh vũ trường; Kinh doanh mát-xa (massage), ka-ra-ô-kê (karaoke); Kinh doanh ca-si-nô (casino); trò chơi điện tử có thưởng bao gồm trò chơi bằng máy giắc-pót (jackpot), máy sờ-lot (slot) và các loại máy tương tự; Kinh doanh đặt cược (bao gồm: Đặt cược thể thao, giải trí và các hình thức đặt cược khác theo quy định của pháp luật); Kinh doanh gôn (golf) bao gồm bán thẻ hội viên, vé chơi gôn; Kinh doanh xổ số.
Đối tượng không chịu thuế tiêu thụ đặc biệt
Theo Điều 3 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008 (sửa đổi 2014) và khoản 3 Nghị định 108/2015/NĐ-CP, hàng hóa thuộc diện chịu thuế thu nhập đặc biệt sẽ không phải chịu thuế tiêu thụ đặc biệt trong các trường hợp sau:
Một là: Hàng hóa do cơ sở sản xuất, gia công trực tiếp xuất khẩu hoặc bán, ủy thác cho cơ sở kinh doanh khác để xuất khẩu;
Hai là: Hàng hóa nhập khẩu gồm:
Hàng viện trợ nhân đạo, viện trợ không hoàn lại; quà tặng cho cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân, quà biếu, quà tặng cho cá nhân tại Việt Nam theo mức quy định của Chính phủ, bao gồm:
Hàng viện trợ nhân đạo, hàng viện trợ không hoàn lại, bao gồm cả hàng hóa nhập khẩu bằng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, hàng trợ giúp nhân đạo, hàng cứu trợ khẩn cấp nhằm khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, dịch bệnh; Quà tặng của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài cho các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, đơn vị vũ trang nhân dân;
Quà biếu, quà tặng cho cá nhân tại Việt Nam theo định mức quy định của pháp luật.
Hàng hóa vận chuyển quá cảnh hoặc mượn đường qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam, hàng hóa chuyển khẩu theo quy định của Chính phủ;
Hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu và tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu không phải nộp thuế nhập khẩu, thuế xuất khẩu trong thời hạn theo quy định của pháp luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu;
Đồ dùng của tổ chức, cá nhân nước ngoài theo tiêu chuẩn miễn trừ ngoại giao; hàng mang theo người trong tiêu chuẩn hành lý miễn thuế; hàng nhập khẩu để bán miễn thuế theo quy định của pháp luật;
Ba là: Tàu bay, du thuyền sử dụng cho mục đích kinh doanh vận chuyển hàng hoá, hành khách, khách du lịch;
Bốn là: Xe ô tô cứu thương; xe ô tô chở phạm nhân; xe ô tô tang lễ; xe ô tô thiết kế vừa có chỗ ngồi, vừa có chỗ đứng chở được từ 24 người trở lên; xe ô tô chạy trong khu vui chơi, giải trí, thể thao không đăng ký lưu hành và không tham gia giao thông;
Năm là: Hàng hoá nhập khẩu từ nước ngoài vào khu phi thuế quan, hàng hoá từ nội địa bán vào khu phi thuế quan và chỉ sử dụng trong khu phi thuế quan, hàng hoá được mua bán giữa các khu phi thuế quan với nhau, trừ xe ô tô chở người dưới 24 chỗ.
Cách tính thuế tiêu thụ đặc biệt
Theo Điều 5 Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, căn cứ tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt là giá tính thuế của hàng hóa, dịch vụ chịu thuế và thuế suất.
Số thuế TTĐB phải nộp được tính bằng công thức sau:
Số thuế TTĐB = Giá tính thuế TTĐB x thuế suất thuế TTĐB
Cách xác định thuế thu nhập đặc biệt với hàng hóa cụ thể như sau:
Theo Điều 6, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008 (sửa đổi 2014), giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa, dịch vụ là giá bán ra, giá cung ứng dịch vụ nhưng chưa bao gồm các loại thuế TTĐB, thuế bảo vệ môi trường và thuế giá trị gia tăng, cụ thể được quy định như sau:
Đối với hàng hóa sản xuất trong nước, hàng hóa nhập khẩu: là giá do cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu bán ra.
Trường hợp giá bán của cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu bán ra không theo giá giao dịch thông thường trên thị trường thì cơ quan thuế thực hiện ấn định thuế theo quy định của Luật quản lý thuế. Giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt được xác định như sau:
Giá tính thuế TTĐB = (Giá bán chưa có thuế GTGT - Thuế BVMT (nếu có))/(1+ Thuế suất thuế TTĐB)
Trong đó, giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng được xác định theo quy định của pháp luật về thuế thuế tiêu thụ đặc biệt.
Còn theo khoản 1 Điều 2 Nghị định 100/2016/NĐ-CP, một số lưu ý về giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa sản xuất trong nước, hàng hóa nhập khẩu quy định như sau:
Trường hợp cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu hàng hóa chịu thuế thuế tiêu thụ đặc biệt bán hàng qua các cơ sở trực thuộc hạch toán phụ thuộc thì giá làm căn cứ tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ sở hạch toán phụ thuộc bán ra.
Cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu bán hàng thông qua đại lý bán đúng giá do cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu quy định và chỉ hưởng hoa hồng thì giá bán làm căn cứ xác định giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu quy định chưa trừ hoa hồng.
Trường hợp hàng hóa chịu thuế thuế tiêu thụ đặc biệt được bán cho các cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở có quan hệ công ty mẹ, công ty con hoặc các công ty con trong cùng công ty mẹ với cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu hoặc cơ sở kinh doanh thương mại là cơ sở có mối quan hệ liên kết thì giá bán làm căn cứ xác định giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt không được thấp hơn tỷ lệ 7% so với giá bình quân của các cơ sở kinh doanh thương mại mua trực tiếp của cơ sở sản xuất, nhập khẩu bán ra.
Trường hợp cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu thành lập nhiều cơ sở thương mại trung gian có quan hệ công ty mẹ, công ty con hoặc các công ty con trong cùng công ty mẹ hoặc có mối quan hệ liên kết thì giá bán làm căn cứ xác định giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt không được thấp hơn tỷ lệ 7% so với giá bình quân của các cơ sở thương mại này bán cho cơ sở kinh doanh thương mại không có quan hệ công ty mẹ, công ty con, hoặc các công ty con trong cùng công ty mẹ, hoặc có mối quan hệ liên kết với cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu.
Riêng mặt hàng xe ôtô giá bán bình quân của cơ sở kinh doanh thương mại để so sánh là giá bán xe ôtô chưa bao gồm các lựa chọn về trang thiết bị, phụ tùng mà cơ sở kinh doanh thương mại lắp đặt thêm theo yêu cầu của khách hàng.
Cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu và cơ sở kinh doanh thương mại có mối quan hệ liên kết theo quy định này khi: Một doanh nghiệp nắm giữ trực tiếp hoặc gián tiếp ít nhất 20% vốn đầu tư của chủ sở hữu của doanh nghiệp kia.
Trường hợp giá bán làm căn cứ xác định giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt của cơ sở sản xuất, cơ sở nhập khẩu hàng hóa chịu thuế thuế tiêu thụ đặc biệt thấp hơn tỷ lệ 7% so với giá bình quân của cơ sở kinh doanh thương mại bán ra thì giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt là giá do cơ quan thuế ấn định theo quy định của pháp luật về quản lý thuế.
Cách xác định thuế thu nhập đặc biệt đối với hàng hóa nhập khẩu tại khâu nhập khẩu: là giá tính thuế nhập khẩu cộng với thuế nhập khẩu.
Trường hợp hàng hóa nhập khẩu được miễn, giảm thuế nhập khẩu thì giá tính thuế không bao gồm số thuế nhập khẩu được miễn, giảm.
Hàng hoá chịu thuế thuế tiêu thụ đặc biệt nhập khẩu được khấu trừ số thuế thuế tiêu thụ đặc biệt đã nộp ở khâu nhập khẩu khi xác định số thuế thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp bán ra.
Đối với hàng hóa gia công: là giá tính thuế của hàng hóa bán ra của cơ sở giao gia công hoặc giá bán của sản phẩm cùng loại hoặc tương đương tại cùng thời điểm bán hàng;
Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm: là giá bán theo phương thức bán trả tiền một lần của hàng hóa đó không bao gồm khoản lãi trả góp, lãi trả chậm;
Đối với dịch vụ: là giá cung ứng dịch vụ của cơ sở kinh doanh.
Giá cung ứng dịch vụ đối với một số trường hợp được quy định như sau:
Đối với kinh doanh gold là giá bán thẻ hội viên, giá bán vé chơi gôn bao gồm cả tiền phí chơi gold và tiền ký quỹ (nếu có);
Đối với kinh doanh ca-si-nô, trò chơi điện tử có thưởng, kinh doanh đặt cược là doanh thu từ hoạt động này trừ số tiền đã trả thưởng cho khách;
Đối với kinh doanh vũ trường, mát-xa, ka-ra-ô-kê là doanh thu của các hoạt động kinh doanh trong vũ trường, cơ sở kinh doanh mát-xa, ka-ra-ô-kê;
Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi hoặc tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng cho: là giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này.
Giá tính thuế thuế tiêu thụ đặc biệt đối với hàng hóa, dịch vụ quy định nêu trên bao gồm cả khoản thu thêm, được thu (nếu có) mà cơ sở kinh doanh được hưởng.
Hoàn thuế, khấu trừ thuế thu tiêu thụ đặc biệt như thế nào?
Theo điều 8 Luật thuế thu nhập đặc biệt 2008 (sửa đổi 2014), người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt được hoàn thuế đã nộp trong các trường hợp sau: Hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu; Hàng hóa là nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng xuất khẩu; Quyết toán thuế khi sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, chấm dứt hoạt động có số thuế nộp thừa; Có quyết định hoàn thuế của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.
Việc hoàn thuế tiêu thụ đặc biệt theo quy định tại điểm a và điểm b khoản này chỉ thực hiện đối với hàng hoá thực tế xuất khẩu.
Người nộp thuế sản xuất hàng hóa thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt bằng nguyên liệu đã nộp thuế tiêu thụ đặc biệt nếu có chứng từ hợp pháp thì được khấu trừ số thuế đã nộp đối với nguyên liệu khi xác định số thuế tiêu thụ đặc biệt phải nộp ở khâu sản xuất..
Theo Điều 9 Luật thuế thu nhập đặc biệt 2008 (sửa đổi 2014), đối tượng được iảm thuế thu nhập đặc biệt trong các trường hợp sau: Người nộp thuế sản xuất hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt gặp khó khăn do thiên tai, tai nạn bất ngờ được giảm thuế.
Mức giảm thuế được xác định trên cơ sở tổn thất thực tế do thiên tai, tai nạn bất ngờ gây ra nhưng không quá 30% số thuế phải nộp của năm xảy ra thiệt hại và không vượt quá giá trị tài sản bị thiệt hại sau khi được bồi thường (nếu có).
Đối tượng nộp thuế thu nhập đặc biệt:
Theo Điều 4 Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008 (sửa đổi 2014) người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt được quy định như sau:
Người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là tổ chức, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa và kinh doanh dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.
Trường hợp tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu mua hàng hoá thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt của cơ sở sản xuất để xuất khẩu nhưng không xuất khẩu mà tiêu thụ trong nước thì tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh xuất khẩu là người nộp thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế thu nhập đặc biệt ở Việt Nam và trên thế giới
Trên thế giới thuế thu nhập đặc biệt xuất hiện khá sớm, tuy nhiên tại Việt Nam đến năm 1990 thuế thu nhập đặc biệt mới chính thưc được mang tên “thu nhập đặc biệt” còn trước đó được mang một cái tên khác.
Thuế thu nhập đặc biệt xuất hiện trên thế giới tự khi nào?
Thuế thu nhập đặc biết xuất hiện từ khá sớm trong lịch sử loài người. Từ thời kỳ La Mã cổ đại các loại thuế đánh vào việc tiêu dùng hàng hóa nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt đã được áp dụng. Mặc dù vậy, các nguồn thu từ thuế tiêu thụ đặc biệt thời kỳ đó chưa có vai trò quan trọng bằng thuế nhập khẩu.
Tuy nhiên, cùng thời điểm đó, một số Quốc gia đã coi trọng và xem loại thuế này như một công cụ cần thiết nhằm tạo lập và tăng cường nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Đơn cử, ở Mỹ, ba năm sau khi Quốc hội Mỹ được trao quyền thu thuế từ công dân Mỹ, năm 1792, sắc thuế đầu tiên được ban hành chính là thuế tiêu thụ đặc biệt, đánh vào rượu whisky. Ở úc, để tăng thu cho ngân sách nhà nước, năm 1824, chính quyền New South Wales đã đặt ra hai thứ thuế là thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt, cùng đánh vào các mặt hàng: rượu, bia, thuốc lá sợi, xì gà và thuốc lá điếu. Đây là hai sắc thuế đem lại nguồn thu quan trọng nhất cho chính quyền thuộc địa trong suốt thế kỉ XIX.
Thuế thu nhập đặc biệt ở Việt Nam qua các thời kỳ
Trước cải cách thuế năm 1990, thuế tiêu thụ đặc biệt được gọi là thuế hàng hóa. Thuế hàng hóa chỉ áp dụng đối với thành phần kinh tế tập thể, cá thể đây là những loại hàng hóa được coi là không thiết yếu.
Thuế hàng hoá quy định trong Điều lệ thuế hàng hoá, ban hành kèm theo Quyết nghị số 487-NQ/QHK4 ngàỵ 26/9/1974. Các mặt hàng chịu thuế là hàng hoá do khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sản xuất và một số mặt hàng nhập cảnh theo người hoặc nhập cảnh dưới hình thức quà biếu, tặng phâm.
Năm 1990 chính sách cải cách thuế tại Việt Nam đượcáp dụng, cùng với đó, đói tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt theo Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990.
Các sản phẩm hàng hóa chịu thuế thu nhập đặc biệt đưuọc đề cập là: thuốc hút, rượu, bia, pháo, bài lá và vàng mã. Tuy nhiên, Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1993 đã thu hẹp diện các mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt xụống còn 4 loại hàng hoá.chịu thuế là thuốc lá điếu, rượu, bia và pháo.
Tiếp đó, Lần sửa đổi, bổ sung Luật thuế tiêu thụ đặc biệt vào năm 1995 đánh dấu bước phát triển trong quá trình hoàn thiện pháp luật thuế tiêu thụ đặc biệt. Trong lần sủa đổi này, hàng háo chịu thuế tiêu thụ đặc biệt không chỉ là hàng hóa sản xuất trong nước mà còn là hàng hóa sản nhập khẩu.
Cụ thể, theo Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1995, các mặt hàng chịu thuế gồm: thuốc lá đỉếu, rượu, bia, pháo, xăng và ô tô nhập khẩu từ 24 chỗ ngồi trở xuống.
Xăng và ô tô nhập khẩu từ 24 chỗ ngồi trở xuống là những mặt hàng mới được đưa vào danh mục mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt. Việc đánh thuế tiêu thụ đặc biệt vào ô tô nhập khẩu nói trên phần nào phản ánh chính sách bảo hộ ngành sản xuất ô tô trong nước của nước ta trong giai đoạn này.
Sau Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII về việc mở rộng diện đánh thuế tiêu thụ đặc biệt hoặc tăng mức thuế đối với những mặt hàng cần hạn chế tiêu dùng, đồng thời để phối hợp đồng bộ với Luật thuế giá trị gia tăng bắt đầu có hiệu lực từ ngày 01/01/1999, ngày 20/5/1998, Quốc hội đã thông qua Luật thuế tiêu thụ đặc biệt mới thay thế Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1990 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đậc biệt năm 1993 và năm 1995.
Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998 được xây dựng trên cơ sở xem xét các yếu tố khách quan có khả năng ảnh hưởng tới riền sản Xuất trong nước và tổng thu ngân sách nhà nước. Hai yếu tố có tác động lớn tới những thay đổi chủ yếu của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt năm 1998 là việc đưa Luật thuế giá trị gia tăng vào áp dụng trong thực tiễn và sự kiện Việt Nam tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
Thứ nhất, bắt đầu từ ngày 01/01/1999, thuế giá trị gia tăng có hiệu lực thay thế thuế doanh thu dẫn đến chi phí cho nguyên vật liệu để sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt tăng lên. Điều đó được lí giải bởi thuế giá trị gia tăng đầu vào của nguyên vật liệu sản xuất mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt lớn hơn thuế doanh thu phải nộp theo Luật thuế doanh thu trước đây. Do vậy, cần phải giảm bớt thuế suất thuế tiêu thụ đặc biệt để không ảnh hưởng lớn tới giá cả của mặt hàng chịu thuế.
Thứ hai, ttong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam sẽ phải cắt giảm thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng, từ đó làm giảm số thu ngân sách nhà nước từ thuế nhập khẩu. Để đảm bảo tổng thu ngân sách nhà nước không bị ảnh hưởng, cần phải lấy lại số thu đáng lẽ có thể huy động được từ thuế nhập khẩu nếu không sửa đổi Luật thuế xuất, nhập khẩu. Mở rộng diện hàng hoá, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đậc biệt là giải pháp khả thi và các nhà làm luật đã lựa chọn phương án này.
Các Văn bản pháp luật điều chỉnh thuế thu nhập đặc biệt
Các luật liên quan, điều chỉnh trực tiếp Thuế tiêu thụ đặc biệt bao gồm: Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Thuế giá trị gia tăng sửa đổi 2005; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 1998; Luật Thuế Tiêu thụ đặc biệt sửa đổi 2003; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt 2008; Luật sửa đổi các Luật về thuế 2014; Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt sửa đổi 2014; Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế sửa đổi 2016.
Các nghị định về thuế tiêu thụ đặc biệt bao gồm:
Nghị định số 108/2015/NĐ-CP ngày 28/10/2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số Điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2016, được sửa đổi, bổ sung bởi:
Nghị định số 100/2016/NĐ-CP ngày 01 tháng 7 năm 2016 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng, Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật quản lý thuế, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2016.
Nghị định số 14/2019/NĐ-CP ngày 01 tháng 02 năm 2019 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 108/2015/NĐ-CP ngày 28 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, có hiệu lực thi hành kể từ ngày 20 tháng 3 năm 2019.
Nghị định số: 26/VBHN-BTC của Bộ tài chính quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt.