Đái tháo đường thai kỳ nguy hiểm cho cả mẹ và con

07:33, 11/10/2015
|

(VnMedia) - Theo một nghiên cứu y khoa, hơn 50% phụ nữ có tiền sử mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ có nguy cơ bị đái tháo đường típ 2 trong vòng 5-10 năm sau khi sinh.

Bệnh đái tháo đường thai kỳ ngày nay được cộng đồng quan tâm vì tốc độ gia tăng nhanh chóng và những biến cố nguy hiểm cho cả mẹ và thai nhi. Số liệu cho thấy có đến 15% phụ nữ mang thai trên thế giới có khả năng mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ. Ở Việt Nam, tỷ lệ thai phụ mắc bệnh đái tháo đường thai kỳ là 20,3%.

PGS. TS. Nguyễn Khoa Diệu Vân - Trưởng khoa Nội Tiết - Đái tháo đường bệnh viện Bạch cho biết, đái tháo đường thai kỳ nếu không chữa trị kịp thời có thể dẫn đến các tai biến như: Nguy cơ tử vong chu sinh tăng gấp 4 lần so với bình thường; Nguy cơ sinh non tăng hơn gấp đôi (14,02%) so với tỉ lệ thông thường (6,55%); Tỷ lệ hạ đường huyết sơ sinh trên lâm sàng tăng hơn 20 lần so với mức bình thường; Nguy cơ khởi phát chuyển dạ tăng hơn gần 3 lần so với mức bình thường; Hơn 50% phụ nữ có tiền sử mắc bệnh Đái tháo đường thai kỳ có nguy cơ bị Đái tháo đường típ 2 trong vòng 5-10 năm sau khi sinh.

Tuy nhiên thực trạng cho thấy, đái tháo đường thai kỳ chưa được cộng đồng quan tâm và hiểu đúng. Đái tháo đường thai kỳ thường được cho là căn bệnh không nghiêm trọng, thậm chí sinh xong tự nhiên sẽ khỏi, hoặc nếu ăn uống lành mạnh, sẽ không lo bị tăng đường huyết.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Các yếu tố nguy cơ của đái tháo đường

Hiện nay đái tháo đường đang trở thành đại dịch trên toàn thế giới. Đái tháo đường khi có thai cũng ngày càng gia tăng nhất là ở những thai phụ có những yếu tố nguy cơ như: cha mẹ, anh em có người bị tiểu đường, thai kỳ lần trước bị thai lưu, thai dị tật, con to hoặc ở những người có lối sống ít vận động, béo phì, cao huyết áp.

Các biến chứng có thể gặp

Thông thường, các biến chứng của đái tháo đường thai nghén hiếm khi nghiêm trọng, vì thế tử vong chu sản (quanh cuộc đẻ) rất thấp. Tuy nhiên, nếu không được phát hiện sớm và điều trị thì có nhiều nguy cơ và biến chứng cho mẹ và thai.

Với mẹ: Có nguy cơ tăng huyết áp, tim mạch và đối diện với khả năng bệnh sẽ chuyển thành đái tháo đường vĩnh viễn… Tiếp theo là dễ gặp các biến chứng như tiền sản giật, đẻ non, mổ lấy thai. Nếu mẹ kèm béo phì thì cũng tăng nguy cơ dị tật tim cho thai.

Với thai: Chính thai nhi phải gánh chịu nhiều biến chứng quan trọng như dị tật thần kinh hay tim, nguy cơ thai quá to (làm cho sinh đẻ khó khăn) nhưng lại không khỏe, vì thế, người ta gọi những trẻ đó là “người khổng lồ chân đất sét”, đẻ non… Ngoài ra, biến chứng lâu dài với con là tăng nguy cơ bị quá cân, béo phì và cả đái tháo đường sau này.

Biện pháp phòng ngừa đái tháo đường thai kỳ

Khi đã có thai thì không thể tránh những bất thường về chuyển hoá nhưng vẫn có thể hạn chế nguy cơ bị bệnh ngay từ trước khi có thai bằng sự thực hành một lối sống lành mạnh:

Vận động hằng ngày, chế độ ăn cân đối… Ăn đường không gây ra bệnh đái tháo đường nhưng một chế độ ăn quá ngọt, quá nhiều mỡ và/hoặc luôn ăn vặt đồ ngọt cộng với lối sống trì trệ dễ gây ra tăng cân trên mức bình thường và chính những điều đó là yếu tố thuận lợi để sinh bệnh. 

Điều trị đái tháo đường thai nghén

Điều trị có hiệu quả là giữ cho mức đường huyết không dao động và là cách tốt để phòng ngừa các biến chứng. Trong hầu hết trường hợp, chỉ cần thực hành một chế độ dinh dưỡng do thầy thuốc hướng dẫn. Nếu được điều trị thích hợp, có thể giảm đến 50% số con sinh ra nặng cân và những biến chứng cho trẻ sơ sinh. Sau đẻ cần theo dõi chặt chẽ: Cần kiểm tra lại nồng độ đường huyết sau 6 tuần.

Phát hiện sớm đái tháo đường thai kỳ

Các phụ nữ có yếu tố nguy cơ … cần được xét nghiệm ngay từ lần đi khám thai đầu tiên bằng cách đo nồng độ đường trong máu lúc đói nhằm mục đích điều trị sớm, tránh biến chứng. Nếu có kết quả dương tính hay nghi ngờ, cần gặp thầy thuốc chuyên khoa về nội tiết để được theo dõi và chữa trị.

Để thai không phơi nhiễm với những nguy cơ, điều thiết yếu là phải phát hiện sớm bệnh ngay từ khi bắt đầu có thai, vì vậy, mọi phụ nữ có thai dù không có yếu tố nguy cơ cũng đều cần tìm đường trong nước tiểu hay nồng độ đường trong máu theo chỉ định của thầy thuốc.

Phạm Minh


Ý kiến bạn đọc