- Chiều 14/11, tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT của Quốc hội Lê Quang Huy đã báo cáo một số vấn đề lớn về việc giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật Tài nguyên nước (sửa đổi).
Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT của Quốc hội Lê Quang Huy |
Báo cáo tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT Lê Quang Huy cho biết, trên cơ sở ý kiến của đại biểu Quốc hội, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT (KH,CN&MT) đã chủ trì, phối hợp với Bộ TN&MT (Cơ quan chủ trì soạn thảo), Thường trực Ủy ban Pháp luật và các cơ quan hữu quan nghiên cứu, rà soát tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Luật.
Về bảo vệ tài nguyên nước và phục hồi nguồn nước, dự thảo Luật đã được chỉnh lý theo hướng quản lý theo tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật đối với các quy định mang tính kỹ thuật như: bảo đảm sự lưu thông của dòng chảy tại Điều 25; phòng, chống ô nhiễm nước biển tại Điều 33; khai thác tài nguyên nước cho sinh hoạt tại Điều 43; thu gom, xử lý nước đã qua sử dụng trong sản xuất công nghiệp, khai thác và chế biến khoáng sản tại Điều 47; phòng, chống xâm nhập mặn tại Điều 64; phòng, chống sụt, lún đất tại Điều 65; phòng, chống sạt, lở lòng, bờ, bãi sông, hồ tại Điều 66…
Bên cạnh đó, dự thảo Luật đã được rà soát, bổ sung, chỉnh lý quy định về ưu tiên đầu tư tìm kiếm, thăm dò, khai thác nguồn nước, có chính sách ưu đãi đối với các dự án đầu tư khai thác nước cho sinh hoạt, sản xuất cho người dân các vùng khan hiếm nước (khoản 2 Điều 4); khuyến khích thực hiện các hoạt động tích trữ nước (khoản 4 Điều 4); phát triển hoạt động khoa học và công nghệ trong tích trữ nước (điểm h khoản 1 Điều 6); khuyến khích các tổ chức, cá nhân nghiên cứu giải pháp và thực hiện việc bổ sung nhân tạo nước dưới đất (khoản 3 Điều 39), đồng thời giao Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường quy định cụ thể việc bổ sung nhân tạo nước dưới đất (khoản 3 Điều 39).
Chủ nhiệm Ủy ban KH,CN&MT Lê Quang Huy cho biết, dự thảo Luật cũng đã được rà soát, chỉnh lý quy định chặt chẽ trách nhiệm trong khai thác nước cho sinh hoạt của các cơ quan tại khoản 3, 4 Điều 43 về khai thác tài nguyên nước cho sinh hoạt; quan trắc, giám sát tài nguyên nước tại khoản 1, khoản 2 Điều 51 và giao Chính phủ quy định chi tiết việc quan trắc tại khoản 3 Điều 51 dự thảo Luật. Đồng thời giao Chính phủ quy định chi tiết tại khoản 9 Điều 52 về trình tự, thủ tục kê khai, đăng ký, cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước. Đồng thời, quy định chuyển tiếp việc hoàn thành thủ tục đăng ký, cấp phép khai thác tài nguyên nước cho các công trình thuỷ lợi là sau 03 năm, quy định tại khoản 5 Điều 86 dự thảo Luật…
Liên quan đến đề nghị cần xác định tỷ lệ nước phải tuần hoàn, tái sử dụng cho từng dự án cụ thể để tăng cường trách nhiệm của chủ dự án khi lựa chọn áp dụng công nghệ tiên tiến vào sản xuất và xử lý nước thải, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy, để phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, Điều 59 dự thảo Luật đã quy định việc tuần hoàn, tái sử dụng nước theo 3 cấp độ:
(1) Khuyến khích các dự án khai thác, sử dụng nước có giải pháp sử dụng nước tuần hoàn, tái sử dụng nước thải (khoản 1); (2) Có kế hoạch, lộ trình quy định các loại dự án phải có phương án tái sử dụng nước đối với các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước và các hình thức ưu đãi tương ứng theo quy định của pháp luật (khoản 5, 6); (3) Bắt buộc áp dụng đối với các dự án đầu tư sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có khai thác, sử dụng nước và xả nước thải tại các khu vực có nguồn nước không còn khả năng chịu tải (khoản 4).
Đồng thời, khoản 5 Điều 59 dự thảo Luật đã quy định giao Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có kế hoạch, lộ trình quy định các loại dự án phải có phương án tái sử dụng nước đối với các khu vực thường xuyên xảy ra hạn hán, thiếu nước và các hình thức ưu đãi theo quy định của pháp luật. Theo đó, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh sẽ xem xét, quyết định tỷ lệ nước phải tuần hoàn, tái sử dụng đối với từng dự án. Do đó, xin được giữ như dự thảo Luật.
Đối với đề nghị nghiên cứu bỏ quy định thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với hoạt động khai thác nước mặt phục vụ sản xuất nông nghiệp vì có thể làm tăng thêm chi phí cho người nông dân, Thường trực Ủy ban KH,CN&MT nhận thấy, việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước đối với hoạt động sản xuất nông nghiệp nhằm đảm bảo công bằng giữa các đối tượng khai thác, sử dụng nước, góp phần nâng cao ý thức sử dụng nước tiết kiệm, tránh lãng phí tài nguyên nước.
Ngoài ra, việc triển khai thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước cho sản xuất nông nghiệp được thực hiện theo lộ trình và chỉ thu khi nhà nước thu thủy lợi phí, được quy định tại khoản 3 Điều 86. Theo báo cáo của Chính phủ, quá trình xây dựng Luật đã có đánh giá tác động, lấy ý kiến của đối tượng chịu sự tác động của chính sách đối với việc thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước tại nội dung đánh giá chính sách về tài nguyên nước. Đồng thời, dự thảo Luật đã giao Chính phủ quy định chi tiết về phương pháp tính, mức thu tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước tại khoản 6 Điều 69. Do đó, xin được giữ như dự thảo Luật.
Thường trực Ủy ban KH,CN&MT đã phối hợp với cơ quan chủ trì soạn thảo và các cơ quan hữu quan rà soát, tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện văn phong, kỹ thuật văn bản dự thảo Luật. Sau khi tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Luật có bố cục gồm 10 Chương, 86 Điều, bổ sung 07 Điều, bỏ 04 Điều, tăng 03 Điều so với dự thảo Luật do Chính phủ trình Quốc hội.