Năm 1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã lan rộng khắp hai miền Nam-Bắc, nhà thơ Nam Hà viết những dòng thơ nóng bỏng: “Đất nước/ Của những người con gái con trai/ Đẹp như hoa hồng, cứng như sắt thép/ Xa nhau không hề rơi nước mắt/ Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt...”.
Bài thơ “Chúng con chiến đấu cho người sống mãi Việt Nam ơi” có khổ thơ trên, khi vừa được ngâm lên, ai cũng hiểu “ngày gặp mặt” chính là ngày hòa bình, là ngày vui chiến thắng. Danh ngữ “ngày gặp mặt” trong bài thơ ở đây có tính biểu tượng: Biểu tượng cho một niềm tin, một quyết tâm và một hy vọng hướng về tương lai cuộc chiến. Cũng không ai nghĩ rằng cuộc chiến tranh kéo dài đến thế, “giọt nước mắt để dành” mãi đến tận gần chục năm sau.Năm 1971, hàng nghìn sinh viên từ các trường đại học trên miền Bắc nô nức lên đường ra trận. Lệnh động viên tuyển quân, lấy sinh viên từ các trường đại học vào Quân đội được hiểu như một thời khắc mà đất nước đã phải dùng đến “của để dành”, dùng đến những “lá bài cuối cùng” cho cuộc kháng chiến giành độc lập, tự do. Ý thức được trách nhiệm và hoàn cảnh lịch sử đó, sinh viên đại học trúng tuyển nghĩa vụ càng quyết tâm, sẵn sàng ra trận.
Hàng chục vạn người con của Thủ đô đã tình nguyện lên đường chi viện cho chiến trường miền Nam. Ảnh tư liệu minh họa: Kim Hùng/TTXVN |
Trong đội ngũ những trung đoàn sinh viên lên đường năm đó có chúng tôi: 20 sinh viên khóa 15 của Khoa Ngữ Văn, Đại học Tổng hợp Hà Nội (nay là Khoa Văn học và Khoa Ngôn ngữ học, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội). Đúng là một cuộc chia tay không ai rơi nước mắt. Trong số 20 sinh viên lên đường hôm đó có một chàng trai buồn nhất, trông như “nước mắt đã chảy vào trong”. Anh buồn vì có một bài thi anh chưa được biết điểm. Đó là bài thi môn Văn học phương Tây của thầy Nguyễn Văn Khỏa. Anh cảm thấy bài thi thời lượng 180 phút của mình viết rất say sưa, tâm huyết, nhưng hơi lạc đề, có thể bị điểm thấp.
Trong lễ xuất quân, thầy Nguyễn Văn Khỏa không ra tiễn chúng tôi. Thầy vốn là Trung đội phó Trung đội Quân báo trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, một cựu chiến binh. Mọi người đều đoán vì thầy ở xa, sức khỏe yếu nên không thể đạp cái xe đạp cọc cạch kiểu xe thồ trong Chiến dịch Điện Biên Phủ lâu nay thầy vẫn sử dụng đi dạy để đến dự lễ tiễn được. Nhưng thầy đã viết mẩu thư ngắn, nhờ người chuyển cho chúng tôi như một lời nhắn cho 9 sinh viên đã làm bài thi môn của thầy: “Tôi giữ lại 9 bài thi của các em, những người ra trận. Vì chiến tranh nên các em chưa được học tiếp lên năm thứ hai. Tôi chờ ngày các em chiến thắng trở về, đến nhà tôi chơi và nhận lại bài thi. Các em yên tâm lên đường nhé. Tất cả các em đều xứng đáng nhận điểm cao nhất, thậm chí điểm 10. Bởi vì chẳng có môn học nào lớn hơn môn học về tình yêu Tổ quốc. Viết đơn tình nguyện nhập ngũ là các em đã giành điểm thủ khoa của môn học lớn đó rồi. Chúc các em chiến thắng!”.
Đọc lời nhắn nhủ động viên của thầy Khỏa như vậy nhưng chàng trai có khuôn mặt buồn đó vẫn chẳng vui lên được. Anh chỉ thở dài, lên xe... Bước vào thao trường huấn luyện, anh say mê tập bắn mọi loại súng và nghiên cứu tìm hiểu mọi loại binh khí được biên chế. Trong lúc đồng đội ngại mang vác nặng, chỉ thích giữ súng tiểu liên AK cho gọn nhẹ, anh lại tình nguyện giữ súng trung liên, loại súng nặng nhất trong tiểu đội. Sau 3 tháng huấn luyện kỹ, chiến thuật bộ binh, các tiểu đoàn sinh viên chúng tôi được chia nhỏ về các sư đoàn và các quân, binh chủng khác nhau. Lại một cuộc chia tay. Chia tay giữa những người đàn ông và dĩ nhiên là cũng “không hề rơi nước mắt”. Chúng tôi vẫn nhớ, buổi chia tay đồng đội sang sư đoàn khác, anh ấy cứ đứng tần ngần, vì sư đoàn đó được vào Nam trước, còn đơn vị anh phải chờ, đi sau. Không tiễn được các bạn đi thêm một đoạn đường, vì tiểu đội anh còn phải đi lĩnh gạo về cho đại đội, anh đứng bên hàng cây bạch đàn, buồn rười rượi, với đôi mắt “đầy hoàng hôn trong mắt trong”. Bạn bè đồng đội chẳng thể nào quên dáng anh mảnh khảnh đứng ven đường tiễn bạn với đôi mắt đượm buồn. Đôi mắt như báo trước một điều gì chẳng lành đang chờ anh phía trước.
Nhà giáo Nguyễn Văn Khỏa (1932-1988). |
Vào Chiến dịch Quảng Trị, anh vẫn là người giữ súng trung liên. Thấy anh gầy nhỏ, tiểu đoàn trưởng định chuyển anh sang tiểu đội thông tin, nhưng anh thiết tha xin ở lại, trực tiếp chiến đấu, với lý do “quen dùng súng trung liên rồi”. Trong các trận đánh giữ Thành cổ Quảng Trị, anh là một trong những tay súng trung liên xông xáo, quả cảm nhất. Thấy anh hay đi đầu đội hình xuất kích, trung đội trưởng nói nhỏ với anh: “Gặp địch, người đi đầu dễ bị quân phục kích xả loạt đạn đầu. Mày con một, chết thì ai nuôi mẹ mày?”. Nghe khuyên vậy, anh cười, cải chính: “Thủ trưởng đọc nhầm lý lịch em rồi. Trung đội mình đang có mấy người con một, cứ để em đi đầu, che đạn cho chúng nó. Em có cả chị gái và em trai nữa đấy. Mà chắc gì đã bắn trúng được em”. Sau khi “đả thông tư tưởng” cho chỉ huy, anh vẫn tiếp tục đi đầu, chiếm vị trí của người xuất kích hành quân số một. Trung đội anh lập nhiều chiến công, giữ vững các chốt quanh Thành cổ Quảng Trị.
Giữa những ngày bom đạn khốc liệt trong thị xã Quảng Trị, anh vẫn không nguôi nỗi nhớ cha mẹ, quê hương, nhớ giảng đường đại học và tất nhiên nhớ cả bài thi môn học thầy chưa trả. Có lần anh tâm sự: "Nếu sống trở về, đến nhận bài, tôi sẽ đề nghị thầy Khỏa chấm bài thi của tôi thật sòng phẳng, khách quan, giống như chấm cho các bạn ở lại học tiếp. Tôi sẵn sàng nhận điểm kém, thi lại, chứ không thích thầy cho điểm 10, kiểu cộng điểm “ưu tiên bộ đội”. Nỗi nhớ của anh cũng mỏng manh và nhanh như tia chớp, tan nhanh qua những trận đánh dồn dập bảo vệ vùng đất Quảng Trị vừa giải phóng.
Mấy năm trôi qua, đến ngày 30-4-1975, cùng cả nước, chúng tôi đều là những người chiến thắng. Từ các sư đoàn khác nhau, các mặt trận khác nhau, chúng tôi lục tục trở lại trường đại học học tiếp. Hẹn nhau “một ngày đẹp giời”, chúng tôi đến thăm thầy Khỏa, nhận điểm bài thi 5 năm trước. Chúng tôi kéo nhau đến thăm thầy, có cả những sinh viên đợt nhập ngũ khác, dễ đến cả trung đội. Một trung đội lính không súng rậm rịch leo cầu thang lên gác hai của một ngôi nhà cổ ở phố Trần Hưng Đạo, Hà Nội. Căn phòng nhỏ của một nhà giáo độc thân trở nên chật chội, xanh rờn màu áo lính. Thầy Khỏa rất vui, khuôn mặt thầy bừng sáng. Thầy cầm tập bài thi mới tìm thấy trong đáy tủ và bắt đầu phân tích đề bài mình ra.
Thầy đọc lại đề thi như sau: “Bình luận vở kịch Hamlet của Shakespeare, nhà phê bình Nga Belinsky viết: “...Kết cục, công chúa Ofélie chết, nhà vua Clodius chết. Không có cái thiện, cũng không có cái ác. Tất cả rồi cũng qua đi, tất cả rồi cùng mai một". Hãy bình luận ý kiến trên”. Rồi thầy bảo chúng tôi: "Thầy không cho ai điểm kém, chỉ có điểm cao hay thấp thôi. Vì đây là đề thi có tính thách đố, gài bẫy một chút, buộc người làm bài phải giải mã bằng chiếc chìa khóa riêng của mình... Nhiều em khi thấy cái tên Belinsky đã choáng, nghĩ rằng tất cả những người Nga nổi tiếng thế giới thì nói gì cũng là chân lý. Nhiều em đã cố phân tích, chứng minh rằng ý kiến của Belinsky là đúng. Những bài đó thầy chỉ cho điểm trung bình. Viết hay đến mấy cũng bị trừ điểm, bị phạt vì cái tội sùng bái cá nhân. Duy có một bài thầy cho điểm cao nhất, vì người làm bài có chính kiến rõ ràng, lập trường dứt khoát. Trước tiên bạn ấy viết có ngầm ý phê phán tôi-người ra đề, là đã không cho biết xuất xứ của ý kiến. Belinsky viết trong bài báo nào, viết khi nào, ở đâu, trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể nào? Khi phân tích nội dung vở kịch, người viết đã chủ động xuất phát từ một quan niệm nhất quán về bản chất của văn chương, nghệ thuật, là chủ nghĩa nhân văn. Nghệ thuật không thể là trò chơi vô tư, “không có cái thiện, cũng không có cái ác”, thờ ơ trước cuộc sống xã hội. Nghệ thuật chân chính bao giờ cũng đấu tranh cho điều thiện, chống cái ác, đấu tranh cho chiến thắng của cái đẹp và tình người. Cuối bài, người viết như bị lạc đề, nhưng thực ra không lạc, mà là kết nối tấn bi kịch của người phương Tây xa xôi từ hàng mấy thế kỷ trước với cuộc chiến tranh giữ nước của người Việt Nam hiện tại, kết nối văn học với hiện thực cuộc đời. Rõ ràng là người viết đã phê phán ý kiến của nhà phê bình Belinsky từ chỗ đứng, lập trường của người Việt Nam cầm súng. Em viết với tâm thế của người chuẩn bị nhập ngũ thì phải. Đấy là bài của Nguyễn Chí Thành. Nguyễn Chí Thành đâu, nhận lại bài này!".
Liệt sĩ Nguyễn Chí Thành đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Ảnh tư liệu |
Không có ai lên tiếng nhận bài. Thầy Nguyễn Văn Khỏa nhìn vào từng khuôn mặt sinh viên mà thầy chưa hề nhớ tên. Thầy lật sang bài thi khác, nói thêm: “Nếu Thành không đến thì ai cầm hộ cho bạn ấy cũng được. Ai nhận nào?”. Thấy chúng tôi im lặng nhìn nhau, tránh nhìn vào mắt thầy, thầy hiểu ngay. Thầy trò trong phòng thẫn thờ, cúi mặt, tránh nhìn vào mắt nhau. Một sinh viên mạnh dạn lên tiếng nói nhỏ: “Trong một lần xuất kích, trong trận đánh ngày 20 tháng 8 năm 1972, giữ Thành cổ Quảng Trị, đi đầu đội hình, Thành rơi vào ổ phục kích địch, không về nữa...”.
Căn phòng chật chội của người lính Điện Biên năm xưa im phăng phắc. Lần đầu tiên chúng tôi nhìn thấy giọt nước mắt thầy rơi xuống trang giấy bài thi. Nước mắt thầy rơi vào điểm 5/5 của Nguyễn Chí Thành. Mực đỏ chấm điểm làm con số 5 nhòe ra như giọt máu.
Chính đó là lúc tất cả chúng tôi cùng chợt nhớ câu thơ Việt Nam vang lên từ năm 1966, câu thơ như đã vô tình biến thành một mệnh lệnh thời đại: “Nước mắt để dành cho ngày gặp mặt!”.
PGS, TS PHẠM THÀNH HƯNG
(QĐND)
https://www.qdnd.vn/phong-su-dieu-tra/ky-su/nuoc-mat-ngay-gap-mat-726541