- Đại biểu (ĐB) Phạm Hùng Thắng (Hà Nam) cho rằng, cấp tỉnh, cấp huyện ra quyết định thu hồi đất nhưng cấp xã phải tổ chức họp dân để phổ biến, thuyết phục, vận động là rất khó khăn, trọng trách quá nặng…
Phát biểu xây dựng Luật Đất đai (sửa đổi), ĐB Phạm Hùng Thắng (Hà Nam) cho biết, Dự thảo luật lần này đã quy định chi tiết hơn một số nguyên tắc, trường hợp tiêu chí thu hồi đất, bồi thường, tái định cư. Song trong thực tế, việc thuyết phục người dân, người sử dụng đất hợp pháp đồng thuận với việc thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng không hề đơn giản.
ĐB Phạm Hùng Thắng đề nghị rà soát lại quy định về các dự án, công trình thu hồi đất để phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng tại khoản 2 Điều 86 để phù hợp hơn và bao quát, đầy đủ hơn với quy định tại khoản 2 Điều 11 về phân loại đất với nhóm đất phi nông nghiệp;
Nghiên cứu, xem xét thêm quy định về thẩm quyền thu hồi đất tại Điều 90 với Điều 93 quy định về trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, vì “dường như chúng ta đang giao cho cấp xã trọng trách quá nặng.”
“Cấp tỉnh, cấp huyện thì ra quyết định thu hồi đất nhưng cấp xã phải tổ chức họp dân để phổ biến, thuyết phục, vận động là rất khó khăn, bởi đây là cấp hành chính thấp nhất và không đơn giản để nắm rõ, hiểu thấu đáo, đầy đủ nội dung của các dự án để giải thích, thuyết phục, vận động người dân, mặc dù đây là cấp gần dân nhất.” – ĐB phân tích.
ĐBQH Phạm Hùng Thắng |
Theo ĐB Phạm Hùng Thắng, dự thảo luật cần cụ thể hơn quy định về sự phối hợp giữa cấp ra quyết định thu hồi, chủ đầu tư dự án với cấp xã trong quá trình thực hiện thu hồi đất thì mới có thể tháo gỡ được khó khăn, vướng mắc.
Tại khoản 2 Điều 97 quy định: "Việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo người dân có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ", ĐB đề nghị xem xét nghiên cứu lại đối với quy định về đảm bảo thu nhập, vì việc tính toán thu nhập của người có đất bị thu hồi ở nơi ở mới so với nơi ở cũ là rất khó khăn, không xác định được chính xác và rất khó làm căn cứ để thực hiện.
Tại điểm d khoản 1 Điều 136 dự thảo luật quy định về điều kiện đấu giá quyền sử dụng đất trong trường hợp đất chưa được bồi thường, hỗ trợ tái định cư, trong đó quy định: "Được 100% người bị thu hồi đất đồng ý với phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư". ĐB cho rằng, quy định này là khó có tính khả thi.
ĐB Trần Quốc Tuấn (Trà Vinh) nêu rõ: Tại điểm c khoản 2 Điều 90 về thẩm quyền thu hồi đất quy định, UBND cấp huyện được quyết định thu hồi đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn. Đồng thời, tại điểm d khoản 1 Điều 99 quy định về các trường hợp không được bồi thường đất nhưng được bồi thường chi phí đầu tư vào đất còn lại khi Nhà nước thu hồi đất, trong đó có đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.
“Theo tôi, khái niệm về quỹ đất công ích nếu không được làm rõ sẽ dẫn đến khó thực hiện hoặc có khi thực hiện sai quy định, vì đây là kẽ hở có thể bị lợi dụng để lách luật dẫn đến vi phạm pháp luật.” – ĐB Trần Quốc Tuấn nêu ý kiến.
Về quy định việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất phải đảm bảo người có đất bị thu hồi có chỗ ở, đảm bảo thu nhập và điều kiện sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, ĐB cũng băn khoăn: Điều kiện sống thế nào là bằng hoặc tốt hơn rất cần có thêm tiêu chí quy định, đánh giá cụ thể hơn để dễ thực hiện và đảm bảo quyền lợi của người dân.
Liên quan đến quyền lợi của người dân trong vấn đề đất đai, cụ thể là bảng giá đất hằng năm dùng để tính tiền sử dụng đất, tiền thuế, tiền bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, ĐB Nguyễn Hữu Thông (Bình Thuận) cho rằng giao thẩm quyền tham mưu bảng giá đất hằng năm cho Sở Tài nguyên và Môi trường là chưa phù hợp mà nên giao cho Sở Tài chính chắc chắn sẽ làm tốt hơn và chính xác hơn, phù hợp với dự án Luật Giá.
ĐB Phạm Văn Thịnh (Bắc Giang) cho rằng, cần hết sức hạn chế cơ chế thỏa thuận nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp để thực hiện các dự án có sử dụng đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất.
“Thực tiễn cho thấy việc duy trì cơ chế thỏa thuận, nhận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nông nghiệp đã tạo ra sự mất công bằng giữa những người có đất nông nghiệp mà nhà nước thu hồi với người được thỏa thuận, giữa những người có đất trong cùng một dự án thỏa thuận. Cơ chế này cũng khiến cho các dự án thuộc diện thỏa thuận không có thời hạn hoàn thành giải phóng mặt bằng, khiến nhiều dự án dở dang, bỏ đất hoang hóa, ảnh hưởng rất xấu đến phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, của đất nước. Cơ chế thỏa thuận đã tạo ra những điều vô lý, mất công bằng xã hội như khi chuyển mục đích sử dụng đất để thực hiện các dự án lợi ích quốc gia thì giá thấp hơn hàng chục, thậm chí đến trăm lần so với dự án thỏa thuận hoặc người đồng ý chuyển nhượng sau cùng lại là người được nhận giá trị thỏa thuận cao hơn những người đồng ý trước” - ĐB Phạm Văn Thịnh nêu quan điểm.
Ngoài ra, để giải quyết dứt điểm các vướng mắc trong giải phóng mặt bằng các dự án thỏa thuận theo Luật Đất đai năm 2013, ĐB Phạm Văn Thịnh đề nghị dự thảo bổ sung thêm trường hợp nhà nước thu hồi đất nông nghiệp đối với các dự án thuộc diện thỏa thuận đã đạt 80% về diện tích.
Theo ĐB, để đảm bảo quyền lợi của người dân có đất nông nghiệp bị thu hồi, hạn chế thất thoát, tạo lập công bằng xã hội trong giao đất, cho thuê đất, sau khi nhà nước thu hồi cần rà soát nâng mức bồi thường, hỗ trợ cho người dân cho phù hợp. Đồng thời thực hiện triệt để việc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá công khai, minh bạch.