- Việt Nam được xác định là quốc gia có tăng trưởng về thương mại điện tử (TMĐT) nhanh nhất khu vực Đông Nam Á, hiện là 20,5 tỷ USD và sẽ đạt 30,5 tỷ USD vào năm 2025…
thương mại điện tử, kinh doanh qua mạng |
Báo cáo kết quả 1 năm triển khai Chỉ thị 18/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và công tác quản lý thuế đối với hoạt động TMĐT tại Việt Nam, Bộ trưởng Bộ Tài Chính Hồ Đức Phớc nhấn mạnh: Phát triển TMĐT là một xu thế tất yếu trong cuộc cách mạng 4.0.
Hiện nay, thương mai điện tử của Việt Nam, theo đánh giá của Bộ Công Thương, là 20,5 tỷ USD và sẽ đạt 30,5 tỷ USD vào năm 2025. Và Việt Nam được xác định là quốc gia có tăng trưởng về TMĐT nhanh nhất khu vực Đông Nam Á. Từ đó đặt ra yêu cầu về quản lý thuế, quản lý về chất lượng hàng hóa, chống lừa đảo.
Theo số liệu quản lý thuế đến năm 2024, ngành thuế đang quản lý 123.759 người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thương mại điện tử, trong đó: Cá nhân là 88.147, doanh nghiệp bán hàng hóa thông qua sàn giao dịch thương mại điện tử là 35.131, doanh nghiệp là chủ sở hữu sàn giao dịch thương mại điện tử là 361, doanh nghiệp lớn hoạt động quảng cáo trên môi trường mạng là 24, nhà cung cấp nước ngoài không có cơ sở kinh doanh cố định tại Việt Nam là 96.
Số liệu quản lý thuế trong 2 năm gần nhất đã ghi nhận kết quả thu thuế từ các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử năm 2022 là 83 nghìn tỷ đồng; năm 2023 số thuế đã nộp là 97 nghìn tỷ đồng, 5 tháng đầu năm 2024 số thuế đã nộp hơn 50 nghìn tỷ đồng.
Bộ trưởng Bộ Tài Chính Hồ Đức Phớc cho biết, về hoàn thiện pháp lý, hiện nay Bộ Tài chính đang thực hiện việc định danh và xác thực điện tử; thực hiện các nghị định 72 năm 2013, Nghị định 59 và rà soát lại các vấn đề liên quan đến TMĐT.
Tuy nhiên, hiện còn tồn tại 2 vấn đề. Thứ nhất, một số địa phương chưa xây dựng kế hoạch chuyển đổi số và thực hiện về TMĐT, phát triển công nghệ thông tin. Về phân cấp quản lý quản lý ngân sách, phải dùng ngân sách địa phương nhưng có những địa phương ngân sách yếu, Nhà nước phải hỗ trợ. Trong khi đó, một số bộ, ngành cũng chưa có đăng ký từ đầu năm, nên cơ sở phân bổ rất khó.
“Sau khi các bộ, ngành có đề xuất, chúng tôi đề xuất Thủ tướng có thể dùng 1 phần dự phòng ngân sách để cấp cho phần này.” – ông Hồ Đức Phớc nói.
Bộ trưởng Bộ Tài Chính Hồ Đức Phớc báo cáo kết quả 1 năm triển khai Chỉ thị 18/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ và công tác quản lý thuế đối với hoạt động thương mại điện tử tại Việt Nam |
Về xây dựng và chia sẻ dữ liệu, Bộ trưởng Bộ Tài chính cho hay, hiện nay việc chia sẻ dữ liệu thuế, mã số thuế định danh theo căn cước công dân, đến 3/6/2024 đã đạt 97,57%.
Bộ Tài chính đã cùng Bộ Công Thương chia sẻ dữ liệu về 929 sàn giao dịch TMĐT tương ứng với 847 doanh nghiệp là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT (1 doanh nghiệp có thể sở hữu nhiều sàn) và 284 ứng dụng bán hàng trên mạng.
Bộ Tài chính cũng đã cùng với Bộ Thông tin và Truyền thông thống nhất danh mục dữ liệu kết nối, chia sẻ với Bộ Tài chính (Cơ quan thuế) 130 tổ chức hoạt động trong lĩnh vực viễn thông, quảng cáo, phát thanh, truyền hình.
Về kê khai, nộp thuế, Bộ Tài chính đã áp dụng định danh và xác thực điện tử đối với: cá nhân thực hiện đăng ký kê khai, nộp thuế; dịch vụ chữ ký số, viễn thông, tên miền; cá nhân mở tài khoản thanh toán tại ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng; đang triển khai khuyến khích các sàn giao dịch TMĐT áp dụng đối với tổ chức, cá nhân kinh doanh trên sàn.
Về kết quả quản lý thuế với TMĐT tại Việt Nam, triển khai hóa đơn điện tử (HĐĐT), máy khởi tạo tính tiền, Bộ Tài chính đã triển khai hoá đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền. Đến nay đã có 61.009 cơ sở kinh doanh áp dụng hóa đơn điện tử khởi tạo từ máy tính tiền với số lượng hóa đơn đã sử dụng là 464,8 triệu hóa đơn.
Đối với việc áp dụng HĐĐT trong lĩnh vực kinh doanh vàng thì 100% các doanh nghiệp (9.419 DN) đã áp dụng hoá đơn điện tử có kết nối với cơ quan thuế theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP của Chính phủ, trong đó có 7.225 doanh nghiệp, cơ sở kinh doanh vàng, bạc đã thực hiện áp dụng giải pháp HĐĐT khởi tạo từ MTT với số lượng hóa đơn đã sử dụng là 1,34 triệu hóa đơn.
Theo số liệu quản lý thuế đến năm 2024 thì ngành thuế đang quản lý 123.759 người nộp thuế có hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực TMĐT, trong đó: cá nhân là 88.147, doanh nghiệp bán hàng hóa thông qua sàn giao dịch TMĐT là 35.131, doanh nghiệp là chủ sở hữu sàn giao dịch TMĐT là 361, doanh nghiệp lớn hoạt động quảng cáo trên môi trường mạng là 24, nhà cung cấp nước ngoài (NCCNN) không có cơ sở kinh doanh cố định tại Việt Nam là 96.
Về số thu Ngân sách Nhà nước: Số liệu quản lý thuế trong 02 năm gần nhất đã ghi nhận kết quả thu thuế từ các tổ chức, cá nhân có hoạt động kinh doanh TMĐT năm 2022 là 83 nghìn tỷ đồng; năm 2023 số thuế đã nộp là 97 nghìn tỷ đồng, 5 tháng đầu năm 2024 số thuế đã nộp trên 50 nghìn tỷ đồng. Lũy kế đến nay đã có 96 NCCNN đã kê khai, nộp thuế với số thuế là trên 15,6 nghìn tỷ đồng.
Về giải pháp, Bộ trưởng Bộ Tài chính đề xuất:
Thứ nhất, kết nối dữ liệu, liên thông đồng bộ giữa các bộ, ngành, đặc biệt dữ liệu dân cư, dữ liệu TMĐT, dữ liệu thanh toán qua ngân hàng… để đối chiếu một cách nhanh chóng yêu cầu kê khai nộp thuế, yêu cầu thanh tra kiểm tra.
Thứ hai, rà soát hoàn thiện pháp luật. Các bộ luật liên quan đến TMĐT từ năm 2014, cho nên cần phải rà soát lại các nghị định, thông tư liên quan để sửa.
Thứ ba, xây dựng Cổng Thông tin đăng ký kê khai thuế của sàn TMĐT trong nước, đôn đốc kê khai, chọn thanh tra, xử lý một số trường hợp trốn thuế.
Thứ tư là định danh và xác thực điện tử, đồng bộ liên thông dữ liệu thông tin hàng hóa.
Thứ năm, áp dụng thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt càng nhiều thì quản lý và thu thuế càng cao.
Thứ sáu, sửa đổi Nghị định 117 năm 2018 về giữ bí mật và cung cấp thông tin khách hàng của tổ chức tín dụng, ngân hàng.
Thứ bảy, quản lý hoạt động TMĐT qua mạng xã hội để thu thuế. “Giờ người ta livestream, bán hàng qua mạng xã hội rất nhiều. Chúng ta phát triển mạng xã hội cùng với việc đối chiếu với ngân hàng thì sẽ thu được nguồn thuế rất lớn.” – Bộ trưởng Bộ Tài chính nêu quan điểm.