- Tính chung quý I/2024, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hoá ước đạt 178,04 tỷ USD, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó xuất khẩu tăng 17%; nhập khẩu tăng 13,9%. Cán cân thương mại hàng hóa xuất siêu 8,08 tỷ USD.
Xuất khẩu tăng mạnh
Theo Tổng cục Thống kê, trong quý I/2024, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 93,06 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 11,6%). Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 25,21 tỷ USD, tăng 26,2%, chiếm 27,1% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 67,85 tỷ USD, tăng 13,9%, chiếm 72,9%. Một tín hiệu đáng mừng đối với nền sản xuất trong nước là mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của khu vực doanh nghiệp trong nước gần gấp đôi so với mức tăng trưởng của khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô).
Cũng trong quý I/2024, có 16 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 82,1% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 4 mặt hàng xuất khẩu trên 5 tỷ USD, chiếm 52,7%), nhiều hơn 2 mặt hàng so với cùng kỳ năm trước (quý I/2023 có 14 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD).
Đặc biệt, trong quý I/2024, xuất khẩu tăng trưởng mạnh và đồng đều ở cả 3 nhóm hàng. Cụ thể, nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản ước đạt 9,9 tỷ USD, tăng 26,1% so với cùng kỳ năm 2023, chiếm 10,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Trong nhóm này, một số mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng cao so với cùng kỳ năm trước như: Cà phê tăng 54,2%; gạo tăng 40%; chè tăng 27,2%; rau quả tăng 25,8%; sắn và sản phẩm của sắn tăng 21,1%; hạt điều tăng 20,5%; gỗ và sản phầm gỗ tăng 18,9%.
Bên cạnh sự tăng trưởng của các nhóm hàng, ngay trong quý đầu năm, kim ngạch xuất khẩu tới hầu hết các thị trường, đối tác thương mại lớn đều có sự phục hồi tốt và đạt mức tăng trưởng cao. Trong đó, Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 26,2 tỷ USD, chiếm 28,2% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tăng 26% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm 2023 giảm 21%); tiếp đến là Trung Quốc ước đạt 12,7 tỷ USD, tăng 5,2%; thị trường EU ước đạt 12,1 tỷ USD, tăng 16,3%; ASEAN ước đạt 8,9 tỷ USD, tăng 9,5%; Hàn Quốc ước đạt 6,6 tỷ USD, tăng 12,9%; Nhật Bản ước đạt 5,7 tỷ USD, tăng 6,4%.
Nhập khẩu tiếp tục hồi phục
Cũng theo Tổng cục Thống kê, tính chung quý I/2024, kim ngạch nhập khẩu hàng hóa ước đạt 84,98 tỷ USD, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm trước (cùng kỳ năm trước giảm 15,4%), trong đó khu vực kinh tế trong nước đạt 29,7 tỷ USD, tăng 14,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 55,28 tỷ USD, tăng 13,6%.
Trong quý I/2024 có 17 mặt hàng nhập khẩu đạt trị giá trên 1 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 76,1% tổng kim ngạch nhập khẩu. Có 02 mặt hàng nhập khẩu trên 10 tỷ USD là điện tử, máy tính và linh kiện đạt 23,9 tỷ USD, tăng 23,6%, chiếm 28,2% tổng kim ngạch nhập khẩu; máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác đạt 10,3 tỷ USD, tăng 12,1%, chiếm 12,1%.
Về cơ cấu nhóm hàng nhập khẩu quý I/2024, đáng lưu ý là nhóm hàng tư liệu sản xuất tăng cao hơn nhiều so với nhóm hàng vật phẩm tiêu dùng. Điều đó chứng tỏ các doanh nghiệp đang tập trung cho phục hồi sản xuất hơn là cho tiêu dùng. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng tư liệu sản xuất ước đạt 79,9 tỷ USD, chiếm 94%, trong đó nhóm hàng máy móc thiết bị, dụng cụ phụ tùng chiếm 46,3%; nhóm hàng nguyên, nhiên, vật liệu chiếm 47,7%.
Các thị trường nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam đều tăng trong quý I/2024. Trung Quốc là thị trường nhập khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 29,4 tỷ USD, chiếm 34,6% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tăng 24,4% so với cùng kỳ năm trước; tiếp đến là Hàn Quốc ước đạt 12,8 tỷ USD, tăng 4,3%; thị trường ASEAN ước đạt 11,1 tỷ USD, tăng 9,8%; Nhật Bản ước đạt 5,6 tỷ USD, tăng 6,8%; EU ước đạt 3,9 tỷ USD, tăng 17,3%; Hoa Kỳ ước đạt 3,5 tỷ USD, tăng 14,8%.
Tổng cục Thống kê cho biết, mặc dù các kết quả trong quý I/2024 rất khả quan nhưng vẫn cần tập trung theo dõi sát tình hình để kịp thời ứng phó vì còn những khó khăn, thách thức tiềm ẩn, như lãi suất còn cao, lãi suất cho vay chưa giảm tương ứng với lãi suất huy động; các thị trường xuất khẩu phục hồi nhưng chưa bền vững.
Trong đó, cần theo dõi sát diễn biến thị trường và thay đổi chính sách của các đối tác để đề xuất các giải pháp phù hợp, phát triển đa dạng các thị trường xuất khẩu truyền thống và thị trường mới. Đồng thời, tiếp tục kịp thời thông tin với các Hiệp hội ngành hàng về những diễn biến của thị trường xuất khẩu để doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất phù hợp, định hướng tìm kiếm đơn hàng từ các thị trường.
Chỉ đạo hệ thống Thương vụ Việt Nam tại các khu vực thị trường thường xuyên cập nhật thông tin về tình hình thị trường nước ngoài; các quy định, tiêu chuẩn, điều kiện của thị trường nước ngoài có thể tác động đến hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam và khuyến nghị đối với các địa phương, hiệp hội và doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Cũng theo Tổng cục Thống kê, hiện nay, ngoài 16 FTA, còn có 3 FTA Việt Nam đang đàm phán, đó là FTA giữa Việt Nam và Khối EFTA (bao gồm 4 nước Thụy Sỹ, Na Uy, Iceland, Liechtenstein); tham gia khuôn khổ đàm phán FTA giữa ASEAN và Canada; FTA giữa Việt Nam và UAE hiện cũng đang trong giai đoạn nỗ lực kết thúc đàm phán sớm. Vì vậy, cần khai thác có hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã có, đẩy nhanh đàm phán, ký kết các FTA, liên kết kinh tế mới để đa dạng hóa thị trường, chuỗi cung ứng và đẩy mạnh xuất khẩu.
Minh Ngọc