– Theo Tổng cục Thống kê, chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 01/2024 ước tính giảm 4,4% so với tháng trước nhưng tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 19,3%.
Tổng cục Thống kê cho biết, chỉ số sản xuất toàn ngành công nghiệp (IIP) tháng 01/2024 ước tính giảm 4,4% so với tháng trước và tăng 18,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, ngành chế biến, chế tạo tăng 19,3% so với cùng kỳ năm trước, đóng góp 15,1 điểm phần trăm vào mức tăng chung; sản xuất và phân phối điện tăng 21,6%, đóng góp 1,9 điểm phần trăm; cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,7%, đóng góp 0,1 điểm phần trăm; ngành khai khoáng tăng 7,3%, đóng góp 1,2 điểm phần trăm.
Chỉ số sản xuất công nghiệp tháng 01/2024 so với cùng kỳ năm trước tăng ở 60 địa phương và giảm ở 3 địa phương trên cả nước. Một số địa phương có chỉ số IIP đạt mức tăng khá cao do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành sản xuất và phân phối điện tăng cao. Ở chiều ngược lại, một số địa phương có chỉ số IIP tăng thấp hoặc giảm do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo; ngành khai khoáng và ngành sản xuất, phân phối điện tăng thấp hoặc giảm.
Trước đó, trong năm 2023, kinh tế thế giới tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức. Lạm phát tuy đã hạ nhiệt nhưng vẫn neo ở mức cao, nhiều nền kinh tế lớn duy trì chính sách tiền tệ thắt chặt, lãi suất cao; thương mại, tiêu dùng và đầu tư toàn cầu tiếp tục suy giảm; hàng rào bảo hộ, phòng vệ thương mại gia tăng… kim ngạch xuất khẩu giảm đã ảnh hưởng đến kinh tế trong nước nói chung và sản xuất công nghiệp nói riêng. Tuy nhiên, nhờ vào sự chỉ đạo, điều hành quyết liệt của Chính phủ, cùng sự phối hợp của các bộ, ngành và địa phương mà sản xuất công nghiệp diễn biến theo xu hướng tích cực, đặc biệt kể từ quý III/2023.
Cụ thể, từ quý III/2023 hoạt động sản xuất kinh doanh tăng trưởng tích cực hơn quý trước, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp đạt 4,51% so với quý III/2022. Trong đó, do ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 5,59%; ngành khai khoáng giảm 5,5%; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 5,12%.
Sản xuất công nghiệp quý IV/2023 tiếp tục xu hướng tăng trưởng tích cực, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ước đạt 6,86% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023, giá trị tăng thêm toàn ngành công nghiệp ước tính tăng 3,02% so với năm trước. Trong đó, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 3,62%, đóng góp 0,93 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế; ngành sản xuất và phân phối điện tăng 3,79%, đóng góp 0,14 điểm phần trăm; ngành cung cấp nước, hoạt động quản lý và xử lý rác thải, nước thải tăng 5,18%, đóng góp 0,03 điểm phần trăm; riêng ngành khai khoáng giảm 3,17%, làm giảm 0,10 điểm phần trăm.
Chỉ số sản xuất công nghiệp năm 2023 so với năm trước của một số địa phương có quy mô công nghiệp lớn như sau: Bắc Giang tăng 20,3%; Quảng Ninh tăng 14%: Hải Phòng tăng 13,2%; Hải Dương tăng 8,3%; Đồng Nai tăng 5,3%; Bình Dương và Thái Nguyên cùng tăng 5%; Thanh Hóa tăng 4,8%; thành phố Hồ Chí Minh và Quảng Ngãi cùng tăng 4,3%; Cần Thơ tăng 3,8%; Hà Nội tăng 3%; Bà Rịa-Vũng Tàu tương đương năm trước; Vĩnh Phúc giảm 0,4%; Đà Nẵng giảm 2,5%; Bắc Ninh giảm 11,3%; Quảng Nam giảm 25,3%.
Tính chung năm 2023, chỉ số tiêu thụ ngành chế biến, chế tạo tăng 1,8% so với năm trước (năm 2022 tăng 7,1%). Một số ngành có chỉ số tiêu thụ tăng cao: Dệt tăng 23,7%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 14,6%; in, sao chép bản ghi các loại tăng 12,4%; sản xuất sản phẩm từ cao su và plastic tăng 10,8%; sản xuất thuốc lá tăng 10,4%; sản xuất xe có động cơ tăng 8,1%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 5,3%. Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số tiêu thụ giảm so với cùng kỳ năm 2022: Sản xuất giường, tủ, bàn, ghế giảm 21,9%; sản xuất máy móc thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 21,1%; sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính giảm 12,8%; sản xuất phương tiện vận tải khác giảm 10,9%; sản xuất thiết bị điện giảm 7,9%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 7,1%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại giảm 6,9%;…
Chỉ số tồn kho toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tại thời điểm 31/12/2023 ước tính giảm 1,3% so với cùng thời điểm tháng trước và tăng 19,8% so cùng thời điểm năm trước (thời điểm 31/12/2022 tăng 13,9%). Trong đó, một số ngành có chỉ số tồn kho tăng cao so với mức tăng chung: Sản xuất than cốc, sản phẩm dầu mỏ tinh chế tăng 106,8%; sản xuất sản phẩm từ kim loại đúc sẵn tăng 52,3%; sản xuất xe có động cơ tăng 50,5%; sản xuất phương tiện vận tải khác tăng 44%; sản xuất thuốc, hóa dược và dược liệu tăng 35,8%; sản xuất hóa chất và sản phẩm hóa chất tăng 35,7%; sản xuất sản phẩm từ khoáng phi kim loại khác tăng 24,6%; sản xuất kim loại và sản xuất đồ uống cùng tăng 19,8%;…Ở chiều ngược lại, một số ngành có chỉ số tồn kho giảm: sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính giảm 32,8%; sản xuất giường, tủ, bàn ghế giảm 24%; dệt giảm 20,1%; sản xuất trang phục giảm 15,8%; sản xuất thuốc lá giảm 13,7%; in, sao chép bản ghi các loại giảm 12,3%; sản xuất máy mọc thiết bị chưa được phân vào đâu giảm 11,3%; công nghiệp chế biến, chế tạo khác giảm 5,8%; sản xuất da và sản phẩm có liên quan giảm 5,4%; sản xuất cao su và plastic giảm 0,5%.
Tổng cục Thống kê cho biết, mặc dù sản xuất công nghiệp năm 2023 phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, nhưng nhờ vào sự chỉ đạo, điều hành chủ động, linh hoạt, quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; sự phối hợp chặt chẽ của các cấp, các ngành, các địa phương giúp cho sản xuất công nghiệp dần có những xu hướng tích cực. Trong thời gian tới, để hoạt động sản xuất công nghiệp được thúc đẩy hơn nữa thì cần phải có những giải pháp cụ thể nhằm hỗ trợ sản xuất công nghiệp, tháo gỡ khó khăn và phát triển sản xuất.
Minh Ngọc