- Trong năm 2023 có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 07 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66%).
Số liệu từ Bộ Công Thương cho thấy, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa tháng 12 ước đạt 63,54 tỷ USD, tăng 4,7% so với tháng trước và tăng 12,7% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung cả năm 2023, tổng kim ngạch xuất, nhập khẩu hàng hóa ước đạt 683 tỷ USD, giảm 6,6% so với năm trước, trong đó xuất khẩu giảm 4,4%; nhập khẩu giảm 8,9%.
Cũng theo Bộ Công Thương, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 12/2023 ước đạt 32,91 tỷ USD, tăng 5,7% so với tháng trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 9,44 tỷ USD, tăng 9,4%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 23,47 tỷ USD, tăng 4,3%. So với cùng kỳ năm trước, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa tháng 12 tăng 13,1%, trong đó khu vực kinh tế trong nước tăng 18,5%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) tăng 11,1%. Như vậy, trong 6 tháng cuối năm (từ tháng 7/2023 đến nay), xuất khẩu hàng hoá của nước ta đều đạt kim ngạch trên 30 tỷ USD/tháng, cao hơn mức bình quân 27,45 tỷ USD/tháng của 6 tháng đầu năm 2023, cho thấy những tín hiệu khởi sắc trong xuất khẩu và giúp rút ngắn đà suy giảm so với cùng kỳ năm ngoái.
Bộ Công Thương cho biết, mặc dù hoạt động xuất khẩu đã có sự cải thiện tích cực trở lại trong những tháng gần đây do được hỗ trợ bởi các yếu tố như hoạt động xúc tiến xuất khẩu được đẩy mạnh, kinh tế toàn cầu tăng trưởng tốt hơn dự kiến, hàng tồn kho tại các thị trường tiêu thụ chính có xu hướng giảm. Tuy nhiên, đà phục hồi nhìn chung vẫn còn tương đối chậm và xu hướng này dự kiến sẽ còn tiếp tục trong thời gian tới bởi các nền kinh tế lớn trên thế giới vẫn đang phải đối mặt với nhiều khó khăn trong việc lấy lại đà tăng trưởng, trong khi tiêu dùng toàn cầu vẫn chưa cho thấy sự phục hồi rõ nét. Những khó khăn từ suy giảm kinh tế toàn cầu, cầu thế giới suy giảm, đặc biệt là từ những tháng đầu năm dẫn đến đơn hàng xuất khẩu giảm đã ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu chung của cả nước nên tính chung cả năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 355,5 tỷ USD, giảm 4,4% so với năm trước. Trong đó, khu vực kinh tế trong nước đạt 95,55 tỷ USD, giảm 0,3%, chiếm 26,9% tổng kim ngạch xuất khẩu; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (kể cả dầu thô) đạt 259,95 tỷ USD, giảm 5,8%, chiếm 73,1%.
Trong năm 2023 có 35 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD, chiếm 93,6% tổng kim ngạch xuất khẩu (có 07 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD, chiếm 66%).
Cũng trong năm 2023, tổng kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến ước đạt 301,56 tỷ USD, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm 2022. Nguyên nhân chủ yếu là do kim ngạch xuất khẩu của hầu hết mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong nhóm này đều giảm so với cùng kỳ năm trước, trong đó có đến 5 trong tổng số 7 mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu trên 10 tỷ USD thuộc nhóm hàng công nghiệp chế biến suy giảm so với cùng kỳ gồm: Điện thoại các loại và linh kiện ước đạt 53 tỷ USD, giảm 8,3%; máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác ước đạt 43 tỷ USD, giảm 5,6%; hàng dệt may đạt ước đạt 33,22 tỷ USD, giảm 11,6%; giày dép các loại đạt 20,37 tỷ USD, giảm 14,7%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 13,4 tỷ USD, giảm 16,2%. Duy nhất có hai mặt hàng thuộc 07 mặt hàng xuất khẩu trên 10 tỷ USD có kim ngạch xuất khẩu tăng trong năm 2023 là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện cùng với phương tiện vận tải và phụ tùng, với mức tăng lần lượt là 3,3% và 14,6%, đạt lần lượt là 57,34 tỷ USD và 13,74 tỷ USD. Như vậy, máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đã vượt điện thoại các loại và linh kiện, trở thành ngành hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của nước ta, chiếm gần 16% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước.
Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản cả năm 2023 ước giảm 11,1% so với cùng kỳ năm 2022, ước đạt 4,4 tỷ USD. Hầu hết các mặt hàng trong nhóm này đều giảm mạnh, như: dầu thô giảm 16,7%, than đá giảm 35,8%, xăng dầu các loại giảm 1,5%.
Xuất khẩu các sản phẩm của ngành nông nghiệp tiếp tục có những đóng góp ấn tượng, là điểm sáng trong hoạt động xuất khẩu cả nước, đặc biệt là các nhóm hàng nông sản như: gạo, rau quả, cà phê, hạt điều. Kim ngạch xuất khẩu nhóm hàng nông, lâm, thủy sản trong năm 2023 ước đạt 32,56 tỷ USD, tăng 5,7% so với năm 2022 và là nhóm hàng duy nhất ghi nhận tăng trưởng trong năm. Tỷ trọng của nhóm hàng này trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá tăng lên mức 9,1% so với mức 8,3% của năm 2022. Nổi bật trong nhóm này là mặt hàng hàng rau quả với kim ngạch xuất khẩu cả năm 2023 ước đạt 5,57 tỷ USD, tăng gần 66% so với năm 2022. Tiếp đến là mặt hàng gạo với kim ngạch xuất khẩu gạo ước đạt 4,8 tỷ USD, tăng 39,3% so với cùng kỳ năm 2022.
Bộ Công Thương nhận định, nhìn chung các ngành hàng đều gặp khó khăn về thị trường xuất khẩu do tổng cầu trên thế giới giảm, nhất là đối với hàng hoá tiêu dùng không thiết yếu, do vậy kim ngạch xuất khẩu năm 2023 của nước ta sang hầu hết các thị trường chủ lực đều giảm. Tuy nhiên, nhờ những nỗ lực trong thực hiện đa dạng hóa thị trường, tích cực tranh thủ cơ hội từ sự phục hồi của các thị trường lớn, truyền thống của nước ta để đẩy mạnh xuất khẩu trong bối cảnh xuất khẩu sang các thị trường lớn đều sụt giảm nên mức độ suy giảm xuất khẩu nói chung và xuất khẩu tới tới các thị trường truyền thống có xu hướng thu hẹp dần và mức độ tác động đến xuất khẩu từng thị trường xuất khẩu có sự khác nhau. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang các nước châu Phi, Đông Âu, Bắc Âu, Tây Á tăng (châu Phi tăng 6,4%; Một số nước Tây Âu, Đông Âu và Bắc Âu tăng 7,5%; Tây Á tăng 8,7%); đồng thời, mức suy giảm xuất khẩu tại một số thị trường chủ lực tiếp tục được thu hẹp (xuất khẩu sang thị trường Mỹ thu hẹp từ mức giảm 22,6% trong nửa đầu năm 2023 xuống mức giảm khoảng 11,6% trong cả năm 2023; thị trường EU thu hẹp từ mức giảm 10,1% trong nửa đầu năm 2023 xuống còn khoảng 5,9% trong cả năm 2023; thị trường Hàn Quốc thu hẹp từ mức 10,2% xuống còn khoảng 3,4%...).
Trong năm 2023, Mỹ vẫn là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch ước đạt 96,78 tỷ USD, giảm 11,6% so với cùng kỳ năm ngoái, chiếm 27,2% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước; đồng thời, xuất siêu sang thị trường này ước đạt 83 tỷ USD giảm 12,6% so với năm trước. Trung Quốc là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của nước ta với kim ngạch ước đạt 61,67 tỷ USD, tăng 6,4% (là điểm sáng trong xuất khẩu của cả nước trong bối cảnh xuất khẩu sang hầu hết các thị trường chủ lực đều giảm), chiếm 17,3% tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước; đồng thời, nhập siêu từ Trung Quốc ước đạt 49,9 tỷ USD, giảm 17,6%.
Kim ngạch xuất khẩu sang các thị trường lớn khác cũng giảm như: EU giảm 5,9%, ước đạt 44,05 tỷ USD và xuất siêu sang EU ước đạt 29,1 tỷ USD, giảm 7,6%; xuất khẩu sang ASEAN ước đạt 32,74 tỷ USD, giảm 4,1%; đồng thời, nhập siêu từ ASEAN 8,3 tỷ USD, giảm 37,2%; xuất khẩu sang thị trường Hàn Quốc ước đạt 23,49 tỷ USD, giảm 3,4%; đồng thời, nhập siêu từ Hàn Quốc 29,1 tỷ USD, giảm 23,3%; xuất khẩu sang Nhật Bản ước đạt 23,47 tỷ USD, giảm 3,2% và xuất siêu sang Nhật Bản ước đạt 1,6 tỷ USD, tăng 90,3%.
Ngược lại, xuất khẩu sang thị trường các nước Tây Á tăng 8,7%, ước đạt 7,86 tỷ USD và thị trường châu Phi tăng 6,7%..., cho thấy những nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc đa dạng hóa thị trường, tập trung khai thác các thị trường mới, nhiều tiềm năng.
Minh Ngọc