- Trong những năm qua, Việt Nam đã ghi nhận những khoản đầu tư đáng kể từ Trung Quốc. Các nhà đầu tư Trung Quốc ngày càng quan tâm tới lĩnh vực sản xuất thiết bị điện và năng lượng mặt trời tại Việt Nam nhờ có vị trí tiếp giáp Trung Quốc, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa, nguyên liệu thô và dây chuyền sản xuất, mức độ hội nhập quốc tế lớn, nguồn cung bất động sản công nghiệp phong phú và chi phí lao động, sản xuất cạnh tranh với các thị trường lân cận.
Nhà đầu tư Trung Quốc tăng tốc đầu tư vào lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam
Trong vòng năm năm qua, Trung Quốc luôn là một trong top 5 quốc gia có lượng đầu tư lớn nhất tại Việt Nam. Số liệu từ Bộ Kế Hoạch và Đầu tư cho thấy, trong 9 tháng đầu năm 2023, Trung Quốc đã đầu tư 2.92 tỷ USD vào Việt Nam, và là quốc gia đứng thứ hai sau Singapore (3.98 tỷ USD) về khối lượng đầu tư.
Bảng 1: Tổng vốn đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam từ 2018 – 9M/2023
Cũng theo Bộ Kế hoạch và Đầu tư, trong 9 tháng đầu năm 2023, đã có 102 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Trong đó, Trung Quốc chiếm 14,5% tổng lượng vốn đầu tư, tăng 94,9% theo năm. Về số lượng dự án đăng ký mới, Trung Quốc là quốc gia dẫn đầu với 21,2%. Cùng kỳ, Trung Quốc cũng là quốc gia đứng thứ nhất về vốn đầu tư trong lĩnh vực sản xuất, chiếm 22% tổng số lượng đầu tư sản xuất. Singapore và Hong Kong đứng thứ hai và thứ ba với lần lượt 21% và 17% thị phần.
Bảng 2: Tỷ trọng các doanh nghiệp theo quốc gia đầu tư vào lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam, 9M/2023
Tính đến nay, các nhà đầu tư Trung Quốc đã đầu tư vào Việt Nam 4.032 dự án, tổng vốn đăng ký trên 26 tỷ USD, đứng thứ 6 trên tổng số 144 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam.
Về thương mại, Trung Quốc hiện là đối tác thương mại lớn nhất của Việt Nam. Năm 2022, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc đạt 175,6 tỷ USD. 10 tháng đầu năm 2023, kim ngach xuất nhập khẩu của Việt Nam với Trung Quốc đạt 138,9 tỷ USD.
Việt Nam đã nỗ lực vươn lên trên chuỗi giá trị trong nhiều năm và những nỗ lực này đã được đền đáp trong những năm gần đây với cơ hội mang lại từ Chiến tranh thương mại Mỹ - Trung năm 2019 cùng đại dịch kéo dài từ 2020 và 2021. Điều này đã đẩy nhanh quá trình đa dạng hóa và tái lập nhà máy của các nhà sản xuất điện tử đa quốc gia bên ngoài Trung Quốc đến Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Bảng 3: Một số nhà đầu tư lớn từ Trung Quốc vào lĩnh vực sản xuất tại Việt Nam, 2023
Nhu cầu lớn từ các nhà sản xuất năng lượng mặt trời từ Trung Quốc
Nhu cầu sản xuất sản phẩm năng lượng mặt trời đang gia tăng tại Việt Nam, đặc biệt đối với khu vực phía Bắc. Trong đó, Trina Solar – tập đoàn lớn trong lĩnh vực pin năng lượng mặt trời của Trung Quốc, là nhà đầu tư lớn nhất tại KCN Yên Bình, tỉnh Thái Nguyên với hai nhà máy đang hoạt động ổn định. Tập đoàn này đồng thời cũng đề xuất triển khai giai đoạn 3 của Dự án Nhà máy phát triển năng lượng tại Thái Nguyên với mức đầu tư dự kiến 420 triệu USD. Đây là mức đầu tư lớn nhất của Tập đoàn này tại nước ngoài trong lĩnh vực quang điện.
Trong những năm gần đây, các công ty năng lượng mặt trời hàng đầu của Trung Quốc đang mở rộng sản xuất tại Việt Nam, không chỉ nhằm thâm nhập thị trường Đông Nam Á mà còn lấy đó làm bàn đạp để tham gia vào thị trường châu Âu và Mỹ một cách dễ dàng hơn.
John Campbell, Phó Giám đốc, Bộ phận Dịch vụ Công nghiệp, Savills Việt Nam giải thích lý do tại sao Việt Nam và vùng trọng điểm kinh tế phía Bắc lại thu hút các doanh nghiệp Trung Quốc, đặc biệt là các công ty trong lĩnh vực sản xuất năng lượng mặt trời: “Thứ nhất, Việt Nam có vị trí tiếp giáp Trung Quốc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa, nguyên liệu thô và dây chuyền sản xuất. Ngoài ra, vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc của Việt Nam có vị trí địa lý gần với Trung Quốc, đi kèm lợi thế về giá đất công nghiệp cạnh tranh so với khu vực phía Nam, từ đó tạo sức hút riêng của các tỉnh trong khu vực đối với nhà đầu tư Trung Quốc."
“Thêm vào đó, mức độ hội nhập kinh tế cao của Việt Nam là điều đáng chú ý. Đến nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ kinh tế, thương mại với khoảng 224 đối tác đến từ nhiều quốc gia và khu vực trên toàn thế giới. Điều này tạo cơ hội thuận lợi cho các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam mở rộng sự hiện diện trên thị trường. Việt Nam đồng thời sở hữu lực lượng lao động dồi dào, bao gồm lực lượng lao động có tay nghề cao kèm chi phí lao động cạnh tranh. Đáng chú ý, Chính phủ trong thời gian qua đã đưa ra các ưu đãi về thuế và chiến lược năng lượng sạch để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, tạo thêm hấp lực đầu tư tại Việt Nam trong tương quan với các thị trường lân cận” – Ông John cho biết thêm.
Việt Nam và quá trình chuyển đổi chuỗi giá trị
Nhu cầu ghi nhận từ các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm điện tử và năng lượng mặt trời là rất lớn. Ông John Campbell, trong sự kiện “Chuyển đổi công nghiệp của Việt Nam trong thời kỳ hậu đại dịch” do Savills Việt Nam và CNCTech tổ chức tại Thượng Hải và Thâm Quyến (Trung Quốc) cho biết: “Để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của các đơn vị sản xuất, nhiều chủ đầu tư tại Việt Nam đang rốt ráo nâng cao chất lượng xây dựng khu công nghiệp và nhà xưởng xây sẵn của mình. Trong đó, CNCTech là một trong những chủ đầu tư tích cực nhất, với khoản đầu tư đáng kể tại sáu tỉnh trên khắp Việt Nam với 19 khu công nghiệp trải rộng trên 5.487 ha. Nổi bật nhất là dự án tại Vĩnh Phúc. Đồng thời, CNCTech cũng cung cấp cho khách thuê gói hỗ trợ đầy đủ trong suốt thủ tục đầu tư, bao gồm hỗ trợ gia nhập thị trường, đăng ký kinh doanh, xây dựng, thủ tục xin giấy phép phòng cháy chữa cháy, trang bị nội thất, hệ thống điện, các thủ tục thông quan thiết bị, giấy phép thành lập doanh nghiệp chế xuất, hỗ trợ nhân sự, các thủ tục pháp lý và hành chính khác”.
Ông John Campbell, Phó Giám đốc, Bộ phận Dịch vụ Công nghiệp, Savills Việt Nam |
Ông John Campbell cũng đề cập đến việc các khu công nghiệp trên toàn quốc có tỷ lệ lấp đầy cao trên 80%, trong đó tỷ lệ lấp đầy ở các tỉnh trọng điểm phía Bắc đạt 83% và 91% ở các tỉnh trọng điểm phía Nam. Các nhà xưởng và nhà kho xây sẵn cũng ghi nhận tỷ lệ lấp đầy ở mức 83% trên cả nước. Do đó, việc tìm kiếm mặt bằng trống và phù hợp là một thách thức với các doanh nghiệp sản xuất, nếu họ không nhận được sự hỗ trợ từ các chuyên gia hiểu thị trường và một đội ngũ các chủ đầu tư với quy trình hỗ trợ rõ ràng.
Nhận xét về triển vọng của thị trường bất động sản công nghiệp Việt Nam trong thời gian tới, ông John Campbell cho biết: “Bối cảnh thị trường công nghiệp đang thay đổi với sự tham gia của nhiều nhà đầu tư hơn. Khi ngành sản xuất và hậu cần phát triển, các sản phẩm ngày càng đa dạng như nhà máy xây sẵn, nhà kho, cơ sở đa tầng, cơ sở kết hợp, tòa nhà được kiểm soát nhiệt độ và xây dựng phù hợp nhu cầu. Chỉ trong 5 năm, người thuê đất đã có nhiều lựa chọn hơn và không còn bị ràng buộc với thời hạn thuê đất 50 năm như thông lệ. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các nhà đầu tư, với việc nhiều dự án xây sẵn được tung ra thị trường ở các tỉnh trọng điểm."
Ông John cũng chia sẻ về các giải pháp để thu hút các doanh nghiệp tốt nhất, các khu công nghiệp và nhà phát triển bất động sản xây sẵn nên tập trung vào các dịch vụ giá trị gia tăng cao và các ưu đãi ngoài giá thuê. Ví dụ như dịch vụ gia nhập thị trường, hỗ trợ nhân sự và pháp lý, dịch vụ quản lý, sáng kiến bền vững và làm việc với các cơ quan bất động sản công nghiệp chuyên nghiệp.
“Cùng với đó, Chính phủ cần tiếp tục đầu tư vào cơ sở hạ tầng và nâng cao tay nghề cho lực lượng lao động của Việt Nam để nâng cao năng suất và hiệu quả. Đồng thời thời thúc đẩy các ngành công nghiệp hỗ trợ, tăng cường chuỗi cung ứng, đơn giản hóa thủ tục đầu tư và sử dụng đất, cũng như áp dụng số hóa đều là những lĩnh vực trọng tâm của ngành công nghiệp Việt Nam”, ông John nhận định.
Nhật Lâm