- Kết thúc quý II/2023, Việt Nam đã ghi nhận 29/53 nhóm hàng đạt trị giá nhập khẩu trên 1 tỷ USD, giảm 2 nhóm so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, có 2 nhóm hàng nhập khẩu đạt trên 10 tỷ USD là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 38,37 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 19,45 tỷ USD.
Tổng cục Hải quan cho biết, trong 2 quý đầu năm 2023, tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 151,84 tỷ USD, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm trước. Quy mô nhập khẩu hàng hóa trong 2 quý đầu năm 2023 giảm 34,18 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, giảm mạnh nhất là nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện giảm 6,73 tỷ USD; đứng thứ hai là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 4,84 tỷ USD; đứng thứ ba là máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng giảm 3,05 tỷ USD.
Cũng theo số liệu của Tổng cục Hải quan, kết thúc quý II/2023, Việt Nam đã ghi nhận 29/53 nhóm hàng đạt trị giá nhập khẩu trên 1 tỷ USD, giảm 2 nhóm so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, có 2 nhóm hàng nhập khẩu đạt trên 10 tỷ USD là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 38,37 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng đạt 19,45 tỷ USD.
Tuy vậy, so sánh với cùng kỳ năm trước, nhập khẩu có đến 8 nhóm hàng giảm trên 1 tỷ USD cụ thể: điện thoại các loại và linh kiện giảm 6,73 tỷ USD; máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện giảm 4,84 tỷ USD; máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng giảm 3,05 tỷ USD; sắt thép các loại giảm 2,21 tỷ USD; chất dẻo nguyên liệu giảm 2,11 tỷ USD; vải các loại giảm 1,54 tỷ USD; hóa chất giảm 1,28 tỷ USD và kim loại thường khác giảm 1,32 tỷ USD. Tính chung 8 nhóm hàng này đã giảm 23,08 tỷ USD so với 6 tháng/2022.
Cụ thể, ở nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện; nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện: trong tháng 6/2023, nhập khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 6,81 tỷ USD, tăng 10,2% và nhập khẩu nhóm điện thoại các loại và linh kiện đạt 571 triệu USD, tăng 18% so với tháng trước.
Tính đến hết quý II/2023, nhập khẩu nhóm hàng máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện đạt 38,37 tỷ USD, giảm 11,2%, tương ứng giảm 4,84 tỷ USD so với cùng kỳ năm 2022.
Trong khi đó, nhóm hàng điện thoại các loại và linh kiện đạt 3,57 tỷ USD, giảm 65,3% so với cùng kỳ năm trước, tương ứng giảm 6,73 tỷ USD. Đây là mức nhập khẩu thấp nhất trong 6 tháng đầu năm so với cùng kỳ tính từ năm 2014 đến nay của nhóm hàng này.
Tính chung, trị giá nhập khẩu 2 nhóm hàng trên là 41,95 tỷ USD, chiếm 28% trong tổng trị giá nhập khẩu hàng hóa của cả nước và có mức giảm 11,57 tỷ USD, chiếm 34% mức giảm nhập khẩu của cả nước so với cùng kỳ năm trước.
Bốn thị trường chính cung cấp 2 nhóm hàng này cho Việt Nam trong 6 tháng/2023 là Trung Quốc với 12,98 tỷ USD, giảm 22,8% tương ứng giảm 3,8 tỷ USD; Hàn Quốc với 12,59 tỷ USD, giảm 27,8%, tương ứng giảm 4,86 tỷ USD; Nhật Bản với 3,16 tỷ USD, giảm 11,5%, tương ứng giảm 412 triệu USD so với cùng kỳ năm 2022.
Đối với nhóm hàng máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng, trị giá nhập khẩu nhóm hàng này trong 6 tháng/2023 đạt 19,45 tỷ USD, giảm 13,6%, tương ứng giảm 3,05 tỷ USD so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, nhập khẩu nhóm hàng này của khối doanh nghiệp FDI đạt 13,22 tỷ USD, giảm 16,7% tương ứng giảm 2,64 tỷ USD và của khối doanh nghiệp trong nước đạt 6,23 tỷ USD, giảm 6,1% tương ứng giảm 407 triệu USD.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị, dụng cụ và phụ tùng về Việt Nam trong nửa đầu năm 2023 từ thị trường Trung Quốc với 10,18 tỷ USD, giảm 14,9%; tiếp theo từ thị trường Hàn Quốc với 2,77 tỷ USD, giảm 17,6%; từ thị trường Nhật Bản với gần 2 tỷ USD, giảm 7,2% so với cùng kỳ năm trước. Tính chung nhập khẩu nhóm hàng này từ 3 thị trường chủ lực đạt hơn 14,9 tỷ USD, chiếm tỷ trọng 77% trong tổng trị giá nhập khẩu máy móc thiết bị dụng cụ phụ tùng của cả nước.
Đối với nhóm hàng xăng dầu các loại, trong tháng 5 và tháng 6, lượng nhập khẩu xăng dầu các loại tăng lần lượt là 36,5% và 14,9%. Mặc dù vậy, tính chung trong quý II/2023, nhập khẩu xăng dầu các loại của cả nước chỉ đạt 1,92 triệu tấn, giảm 13,9% so với quý I/2023.
Trong nửa đầu năm 2023, Việt Nam đã nhập khẩu tới 5,2 triệu tấn xăng dầu các loại, với trị giá là 4,16 tỷ USD, tăng 8,8% về lượng nhưng giảm 16,7% về trị giá so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lượng dầu Diesel nhập về đạt 2,82 triệu tấn, giảm gần 1% và lượng xăng nhập về đạt 1,11 triệu tấn, tăng 25,8% so với cùng kỳ năm trước.
Nhập khẩu xăng dầu các loại vào Việt Nam trong 6 tháng đầu năm 2023 chủ yếu từ các thị trường: Hàn Quốc đạt 2,07 triệu tấn, tăng 7,4%; Singapore đạt 1,36 triệu tấn, tăng 113%; Malaysia đạt 885 nghìn tấn, tăng 13,3%..
Ô tô nguyên chiếc các loại, nhập khẩu xe ô tô nguyên chiếc các loại trong tháng đạt 9.006 chiếc, tăng 18,4% so với tháng trước. Tính chung, trong 6 tháng/2023, Việt Nam nhập khẩu 70.915 ô tô nguyên chiếc các loại, tăng 11,4% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, lượng ô tô từ 9 chỗ ngồi trở xuống nhập về Việt Nam đạt 56.083 chiếc, chiếm tới 79% tổng lượng ô tô nguyên chiếc các loại nhập về Việt Nam và tăng 14,4% so với cùng kỳ năm trước.
Ô tô nguyên chiếc các loại nhập về Việt Nam trong quý I/2023 chủ yếu có xuất xứ từ Thái Lan, Indonesia và Trung Quốc. Trong đó, nhập khẩu từ Thái Lan là 32.373 chiếc, tăng 18%; từ Indonesia với 25.979 chiếc, tăng 28,1% và từ Trung Quốc với 5.849 chiếc, giảm 45,8% so với cùng kỳ năm trước.
Minh Ngọc