- Định hướng chính sách trong thời gian tới, Thủ tướng nêu rõ chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, mở rộng hơn được thể hiện chủ yếu thông qua: Tăng cung tiền (M2), tăng tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất, nhất là lãi suất cho vay…
Ngày 4/7, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị trực tuyến toàn quốc Chính phủ với các địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2023.
Phiên họp thống nhất đánh giá tình hình kinh tế - xã hội tháng 6 tiếp tục xu hướng tích cực, nhiều lĩnh vực đạt kết quả tốt hơn so với tháng 5 và 5 tháng đầu năm, quý II nhìn chung tốt hơn quý I, đóng góp vào kết quả chung của 6 tháng đầu năm 2023.
Trong đó, nổi bật là kinh tế vĩ mô tiếp tục được duy trì ổn định; lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng được thúc đẩy; các cân đối lớn của nền kinh tế được bảo đảm; nợ công, nợ Chính phủ, nợ nước ngoài quốc gia, bội chi ngân sách nhà nước được kiểm soát tốt theo Nghị quyết của Quốc hội giao.
Lạm phát tiếp tục xu hướng giảm dần trong khi lạm phát ở nhiều nước neo ở mức cao và kéo dài. Tăng trưởng phục hồi, GDP quý II tăng 4,14%, cao hơn mức tăng của quý I (3,32%), tính chung 6 tháng tăng 3,72%. Thị trường tiền tệ, tỉ giá cơ bản ổn định; lãi suất tiền gửi bình quân còn 5,8%/năm (giảm 0,7% so với cuối năm 2022), lãi suất cho vay bình quân còn 8,9%/năm (giảm 1%).
Xuất nhập khẩu có xu hướng tăng trở lại, tính chung 6 tháng xuất siêu 12,25 tỷ USD. Thu chi ngân sách nhà nước bảo đảm tiến độ, thu 6 tháng 876 nghìn tỷ đồng, đạt 54% dự toán năm (giảm 7,8% so với cùng kỳ); chi đạt 805 tỷ nghìn đồng, đạt 38,8% dự toán năm (tăng 12,9%, thể hiện vai trò thúc đẩy tăng trưởng).
Các ngành, lĩnh vực chủ yếu phục hồi tốt, đặc biệt là lĩnh vực công nghiệp tiếp tục tăng trở lại. Nông nghiệp tiếp tục là bệ đỡ vững chắc của nền kinh tế trong khó khăn; lúa gạo được mùa, được giá; năng suất lúa Đông Xuân tăng 1,6 tạ/ha; sản lượng đạt 20,2 triệu tấn, tăng 232 nghìn tấn; 6 tháng xuất khẩu 4,27 triệu tấn gạo, giá trị 2,3 tỷ USD, tổng giá trị nông sản xuất khẩu đạt 24,6 tỷ USD.
Sản xuất công nghiệp tiếp tục tăng trở lại. Quý II tăng 1,56% (quý I giảm 0,75%); tính chung 6 tháng tăng 0,44% so với cùng kỳ, trong đó ngành chế biến, chế tạo tăng 0,37%.
Khu vực dịch vụ giữ mức tăng cao. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tháng 6 tăng 0,5% so với tháng 5; tính chung 6 tháng tăng 10,9% so với cùng kỳ. Thu hút khách quốc tế tháng 6 đạt 975 nghìn lượt, tăng 6,4% so với tháng 5 và gấp 4,1 lần cùng kỳ; tính chung 6 tháng đạt 5,6 triệu lượt, gấp 9,3 lần cùng kỳ.
Vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tiếp tục tăng, quý II cao hơn quý I, góp phần thúc đẩy tăng trưởng. Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội quý II tăng 5,5% (quý I tăng 3,7%); tính chung 6 tháng tăng 4,7%. Đặc biệt, giải ngân vốn đầu tư công 6 tháng đạt 216 nghìn tỷ đồng, bằng 30,49% kế hoạch, cao hơn cùng kỳ (27,75%) và số tuyệt đối cao hơn khoảng 65 nghìn tỷ đồng (tổng số vốn đầu tư công năm 2023 là 817 nghìn tỷ đồng, vốn đầu tư trong nước là 784 nghìn tỷ đồng).
Vốn FDI tiếp tục xu hướng tích cực, vốn FDI đăng ký mới đạt 6,49 tỷ USD, tăng 31,3%; vốn góp, mua cổ phần đạt 4,01 tỷ USD, tăng 76,8%. Vốn FDI thực hiện đạt 10,2 tỷ USD, tăng 0,5% so với cùng kỳ.
Phát triển doanh nghiệp có xu hướng tích cực hơn. Trong tháng 6 có 13,9 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới, tăng 14,9% so với tháng 5; tổng số vốn đăng ký tăng 33,7%; tổng số lao động đăng ký tăng 39,2%. Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh ngành chế biến, chế tạo: Dự kiến quý III có 72,8% doanh nghiệp dự báo ổn định và tốt hơn so với quý II; và 27,4% dự báo khó khăn hơn.
Các lĩnh vực văn hoá, xã hội tiếp tục được chú trọng; đời sống của người dân tiếp tục được cải thiện. Thu nhập bình quân lao động trong 6 tháng là 7 triệu đồng/tháng, tăng 7,6% so với cùng kỳ; 94% tỉ lệ hộ đánh giá có thu nhập không đổi và tăng lên, tăng 15% so với cùng kỳ.
Tình hình chính trị, xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững; trật tự an toàn xã hội cơ bản được bảo đảm. Công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực tiếp tục được tăng cường, đẩy mạnh, góp phần làm trong sạch bộ máy, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng, Đảng viên. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được đẩy mạnh, nhất là đối ngoại cấp cao, ngoại giao kinh tế, uy tín và vị thế quốc tế của Việt Nam tiếp tục được củng cố, nâng lên.
Phát biểu kết luận, Thủ tướng Phạm Minh Chính cơ bản đồng tình với các ý kiến tại phiên họp, giao các cơ quan tổng hợp, tiếp thu, hoàn thiện các báo cáo và dự thảo Nghị quyết phiên họp và dự thảo Nghị quyết chuyên đề về tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, siết chặt kỷ luật, kỷ cương, sớm trình Thủ tướng Chính phủ ký ban hành.
Bên cạnh những kết quả tích cực là cơ bản, Thủ tướng nêu rõ, tình hình kinh tế - xã hội còn những hạn chế, bất cập, khó khăn, thách thức; trong đó, cần lưu ý 3 nhóm vấn đề lớn: Tăng trưởng kinh tế thấp hơn kịch bản đề ra; tình hình sản xuất kinh doanh, thị trường lao động, việc làm gặp nhiều khó khăn, cần nỗ lực hơn; tình hình kỷ luật kỷ cương có lúc chưa nghiêm, còn tình trạng cán bộ công chức viên chức sợ sai, né tránh trách nhiệm.
Về mục tiêu, quan điểm, định hướng chỉ đạo, điều hành, Thủ tướng yêu cầu kiên định, kiên trì tập trung thực hiện mục tiêu tổng quát theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, các nghị quyết, kết luận của Trung ương, Bộ Chính trị, các nghị quyết của Quốc hội, Chính phủ.
Thủ tướng tiếp tục nhấn mạnh ưu tiên tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, đặc biệt là phải ưu tiên cho tăng trưởng gắn với ổn định kinh tế vĩ mô (tăng trưởng khoảng 6,5% và lạm phát khoảng 4,5%) và bảo đảm đời sống nhân dân. Với dư địa chính sách còn khá lớn (lạm phát giảm dần còn 3,29%; nợ công 38%, nợ Chính phủ 34,7% GDP, bội chi ngân sách nhà nước trong vòng kiểm soát), việc ưu tiên hơn cho mục tiêu thúc đẩy tăng trưởng là phù hợp, cần thiết lúc này. Đây cũng là điểm mạnh của Việt Nam so với nhiều nước trên thế giới còn ít hoặc khó khăn cho dư địa chính sách.
Trong chỉ đạo điều hành, cần đặc biệt lưu ý việc bảo đảm cân bằng hài hoà, hợp lý giữa: (1) Lãi suất và tỉ giá; (2) Tăng trưởng và lạm phát, giữa cung và cầu; (3) Chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa; (4) Theo dõi sát và nắm chắc tình hình bên trong và bên ngoài.
Về định hướng chính sách, Thủ tướng yêu cầu tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, nới lỏng, kịp thời, hiệu quả hơn; phối hợp đồng bộ, chặt chẽ, hài hoà với chính sách tài khoá mở rộng hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, hiệu quả, nhanh chóng, dứt khoát; chú trọng nâng cao hơn nữa hiệu quả phối hợp các chính sách.
Cho rằng đây là cơ hội cần nắm bắt, Thủ tướng nêu rõ chính sách tiền tệ linh hoạt hơn, mở rộng hơn được thể hiện chủ yếu thông qua: Tăng cung tiền (M2), tăng tín dụng, giảm mặt bằng lãi suất, nhất là lãi suất cho vay. Theo Thủ tướng, về thực chất, chủ trương này đã được Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo quyết liệt, nhất quán, có lộ trình, xuyên suốt từ tháng 10/2022 đến nay; NHNN đã làm nhưng cần làm mạnh hơn nữa. Thủ tướng Chính phủ đưa ra chủ trương chuyển chính sách tiền tệ từ "chặt chẽ" trước tháng 10/2022 sang "chắc chắn" từ tháng 10/2022 và tiếp tục chuyển sang "linh hoạt, nới lỏng hơn" trong điều kiện hiện nay là cần thiết. Điều này nhằm đáp ứng yêu cầu cấp thiết tháo gỡ khó khăn về thanh khoản, tín dụng, thúc đẩy phục hồi, phát triển sản xuất, kinh doanh và phù hợp với thực tiễn.
Cùng với NHNN và ngành ngân hàng, Thủ tướng kêu gọi và đề nghị cộng đồng doanh nghiệp phải nỗ lực, cố gắng hơn nữa, tăng cường tiết kiệm chi phí, đổi mới quản trị doanh nghiệp, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh hiệu quả, ứng dụng công nghệ cao, đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển sản phẩm có chất lượng theo hướng sản xuất xanh, tăng trưởng xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện môi trường, đáp ứng yêu cầu mở rộng thị trường trong nước, quốc tế.
Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương đồng hành, phối hợp chặt chẽ cùng NHNN và cộng đồng doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, nhất là rà soát, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật, cải cách thủ tục hành chính, tiếp giảm chi phí cho người dân, doanh nghiệp.
Về công cụ, giải pháp chính sách, Thủ tướng yêu cầu rà soát các cơ chế, chính sách, có giải pháp cụ thể, phù hợp để tập trung hỗ trợ, thúc đẩy các động lực tăng trưởng cả về phía cầu và phía cung. Theo đó, tiếp tục rà soát, có các giải pháp mạnh hơn, hiệu quả hơn để kích cầu tiêu dùng, phát triển mạnh thị trường trong nước (các giải pháp về miễn giảm thuế, phí, lệ phí, các hình thức hỗ trợ mua hàng, khuyến mãi, giảm giá, giảm các loại phí, lệ phí, thúc đẩy mạnh mẽ tín dụng tiêu dùng…).
Đẩy mạnh hơn nữa giải ngân vốn đầu tư công (với tổng số vốn đầu tư công năm 2023 khoảng 817 nghìn tỷ đồng; trong khi 1 đồng vốn đầu tư công có thể thu hút được 1,62 đồng đầu tư ngoài nhà nước); đồng thời tạo mọi thuận lợi thu hút đầu tư tư nhân, đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các dự án PPP; tập trung xoá bỏ rào cản, khơi thông mọi nguồn lực từ bên trong và bên ngoài.
Về xuất khẩu, tăng cường xúc tiến thương mại, giữ vững, củng cố các thị trường truyền thống hiện có và mở rộng các thị trường mới, có giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, nhất là xuất khẩu xanh.
Tập trung nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế. Quyết liệt đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, cải thiện môi trường kinh doanh; tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao; xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng; đẩy mạnh chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn… nhằm tạo chuyển biến rõ nét về năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Đồng thời, Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành chủ động, tích cực giải quyết các khó khăn, vướng mắc của các địa phương tổng hợp từ báo cáo của 26 tổ công tác của Chính phủ; các tổ công tác này tiếp tục hoạt động hằng tháng nhằm thực hiện "mục tiêu kép": vừa kiểm điểm, đánh giá việc xử lý các kiến nghị trước đó; vừa kịp thời giải quyết những vấn đề mới phát sinh.