- Theo Hiệp hội Bất động sản TP. Hồ Chí Minh (HoREA), gói tín dụng 120.000 tỷ đồng không phải là gói tín dụng ưu đãi nhà ở xã hội, bởi lẽ nếu là gói tín dụng ưu đãi nhà ở xã hội thì phải đảm bảo 02 tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, lãi suất thấp dành cho chủ đầu tư và người mua, thuê mua nhà ở xã hội quy định thường bằng 50% mức lãi suất cho vay thương mại, như quy định mức lãi suất ưu đãi hiện nay là 4,8 - 5%/năm và mức lãi suất ưu đãi này được xác định hàng năm.
Thứ hai, thời hạn vay ưu đãi dài hạn, như Nghị định 49/2021/NĐ-CP quy định thời hạn vay ưu đãi tối đa 25 năm áp dụng cho cho người mua, thuê mua nhà ở xã hội và 05 năm đối với chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội.
Trong lúc Ngân hàng Nhà nước quy định gói tín dụng 120.000 tỷ đồng như sau:
1. Lãi suất 8,2%/năm áp dụng cho người mua, thuê mua nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, nhà ở thuộc dự án cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư, tuy có thấp hơn một chút so với mức lãi suất 9%/năm mà người mua nhà ở xã hội đang vay hiện nay, nhưng mức lãi suất này vẫn là quá cao so với khả năng tài chính của đối tượng là người có thu nhập đô thị mua, thuê mua nhà ở xã hội.
Riêng mức lãi suất 8,7%/năm áp dụng cho chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư lại khá phù hợp và có tác động tích cực đối với các chủ đầu tư do hiện nay phải vay với lãi suất rất cao có thể lên đến 12-13%/năm. Chủ đầu tư được vay với lãi suất 8,7%/năm sẽ giúp kéo giảm giá thành, giá bán nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, nhà ở của các dự án xây dựng lại nhà chung cư.
Ngân hàng Nhà nước quy định các mức lãi suất của gói tín dụng 120.000 tỷ đồng được xác định định kỳ 06 tháng một lần, theo đó mức lãi suất 8,2%/năm, 8,7%/năm áp dụng đến ngày 30/06/2023 làm cho tâm lý của người vay thêm “bất an”.
2. “Thời gian ưu đãi” của gói tín dụng 120.000 tỷ đồng đối với người mua nhà chỉ trong 05 năm là quá ngắn. Riêng “thời gian ưu đãi” đối với chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư trong 03 năm chỉ phù hợp với các dự án quy mô trung bình nhưng chưa phù hợp với các dự án quy mô lớn.
Hiệp hội nhận thấy, chính sách ưu đãi tín dụng cho người mua, thuê mua nhà ở xã hội vay với lãi suất thấp, dài hạn là chính sách cốt lõi, phổ biến nhất được thực hiện ở nhiều nước được cho vay với lãi suất thấp, dài hạn với các kỳ hạn khác nhau tuỳ theo từng nhóm đối tượng được phân nhóm theo thu nhập để có chính sách ưu đãi tín dụng phù hợp.
Theo Tổ chức định cư toàn cầu HABITAT của Liên Hiệp quốc thì chính sách bán trả góp nhà ở xã hội, nhà giá thấp (social housing, low cost housing) dành cho người có thu nhập thấp (low income) là những người chỉ có một phần điều kiện tài chính, nhưng không có đủ toàn bộ tài chính để tự mình tạo lập nhà ở mà cần phải có sự hỗ trợ của Nhà nước thông qua chính sách tín dụng ưu đãi nhà ở xã hội với lãi suất thấp, dài hạn phổ biến là trên dưới 25 năm (độ dài của một thế hệ) để mua trả góp nhà ở xã hội, tương tự như chính sách nhà ở xã hội của nước ta hiện nay đang cho phép người mua, thuê mua nhà ở xã hội chỉ cần có một phần vốn để thanh toán 20% giá trị hợp đồng mua, thuê mua nhà ở xã hội và được vay ưu đãi 80% giá trị hợp đồng còn lại với lãi suất thấp 4,8 - 5%/năm trong thời hạn tối đa 25 năm.
Đối với người có thu nhập quá thấp trong xã hội nên không thể tích lũy được một phần nguồn lực tài chính để mua, thuê mua nhà ở xã hội thì lựa chọn thuê nhà ở, nên Nhà nước cần phát triển nhà ở xã hội cho thuê để bảo đảm “quyền có chỗ ở” của công dân và khuyến khích cá nhân, hộ gia đình xây dựng nhà cho thuê, phòng trọ cho thuê.
Ngoài chính sách ưu đãi tín dụng, ở nước ta còn thực hiện thêm chính sách miễn tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, giảm 50% thuế VAT và thuế TNDN cho chủ đầu tư, hỗ trợ đầu tư kết nối hạ tầng đến ranh dự án giúp làm giảm thêm giá thành nhà ở xã hội thấp hơn khoảng 15-20% so với giá thành nhà ở thương mại cùng loại là mức “chênh lệch giá” đáng kể. Nhưng Hiệp hội nhận thấy, chính sách ưu đãi tín dụng dài hạn mới là chính sách đòn bẫy giúp người có thu nhập thấp đô thị có đủ điều kiện để tạo lập được nhà ở.
Ví dụ: Giá bán căn hộ nhà ở thương mại A có 02 phòng ngủ là 1,2 tỷ đồng thì giá bán căn hộ nhà ở xã hội B có 02 phòng ngủ cùng loại khoảng 960 triệu đồng và người mua nhà ở xã hội này chỉ trả trước 20% bằng 192 triệu đồng và được vay phần tiền còn lại 768 triệu đồng bằng 80% giá trị hợp đồng với lãi suất thấp 4,8-5%/năm và được trả góp trong 20-25 năm như hiện nay thì rất hợp lý và phù hợp với khả năng tài chính của người vay.
Thậm chí, nếu không miễn tiền sử dụng đất, không giảm thuế VAT, thuế TNDN, không hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng thì giá bán nhà ở xã hội sẽ tương đương với giá bán nhà ở thương mại cùng loại, ví dụ như căn hộ nhà ở xã hội B có 2 phòng ngủ có giá 1,2 tỷ đồng ngang giá căn hộ nhà ở thương mại A (trên đây) thì người mua cũng chỉ trả trước 20% bằng 240 triệu đồng và được vay phần tiền còn lại 960 triệu đồng bằng 80% giá trị hợp đồng với lãi suất thấp 4,8-5%/năm và được trả góp trong 20-25 năm như hiện nay thì rất hợp lý và vẫn phù hợp với khả năng tài chính của người vay.
Chính vì tầm quan trọng của chính sách tín dụng về nhà ở, nên tại các nước công nghiệp phát triển có nền tài chính mạnh thì bên cạnh cơ chế ưu đãi tín dụng dài hạn cho người mua nhà ở xã hội thì còn thực hiện cơ chế cho vay tín dụng dài hạn cho người mua nhà ở thương mại.
Chương trình tín dụng khoảng 120.000 tỷ đồng dự kiến giải ngân trong giai đoạn 2023-2030, nhưng sau gần 02 tháng triển khai thực hiện thì Ngân hàng Nhà nước cho biết chưa phát sinh dư nợ do chưa có người vay.
Đối với các chủ đầu tư dự án nhà ở xã hội, nhà ở công nhân, dự án cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư chưa vay do chưa có dự án nhà ở xã hội mới, hoặc các dự án trên đây đang bị vướng mắc, ách tắc thủ tục “chấp thuận chủ trương đầu tư đồng thời với chấp thuận nhà đầu tư”, hoặc thủ tục phê duyệt quy hoạch chi tiết tỷ lệ 1/500, hoặc chưa xử lý được các diện tích đất công nằm xen kẹt trong dự án nhà ở xã hội, dự án nhà ở thương mại nên chưa có chủ đầu tư nào được vay.
Đức Hoài