- Bộ Tài chính đề xuất giảm 2% mức thuế suất thuế GTGT đối với tất cả các hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 10% (còn 8%); giảm 20% mức tỷ lệ % để tính thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh…
Tại Tờ trình về lập đề nghị xây dựng dự án Nghị quyết của Quốc hội về giảm thuế giá trị gia tăng (đang được Bộ Tư pháp thẩm định), Bộ Tài chính cho biết, trong thời gian qua và đặc biệt là năm 2022, với nhiều giải pháp hỗ trợ về thuế, phí và lệ phí nhằm giảm nghĩa vụ đóng góp của doanh nghiệp, người dân được triển khai thực hiện với giá trị hỗ trợ lớn, phạm vi hỗ trợ rộng, đã góp phần vào những kết quả tích cực trong phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội cũng như hoạt động của doanh nghiệp, người dân, qua đó đóng góp trở lại cho ngân sách nhà nước (NSNN).
Tuy nhiên, việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ nêu trên cũng có ảnh hưởng nhất định tới việc triển khai công tác về NSNN. Mặc dù kết quả thu NSNN của năm 2022 là tích cực, nhưng từ cuối năm 2022 và đặc biệt những tháng đầu năm 2023 đã cho thấy xu hướng giảm.
Lũy kế thu Quý I/2023 ước đạt 411,8 nghìn tỷ đồng, bằng 30,9% dự toán, tăng 5,4% so cùng kỳ năm 2022 (tuy nhiên, nếu loại trừ quyết toán thuế TNDN của năm 2022 thì số thu giảm 6% so cùng kỳ). Số thu NSNN tháng 3 giảm so với tháng 2 và tháng 2 giảm so với tháng 1.
Bên cạnh đó, thu từ hoạt động xuất nhập khẩu thực hiện trong Quý I bằng 26,9% dự toán, giảm 16,4% so cùng kỳ năm 2022.
Bộ Tài chính dự báo, tình hình thế giới và trong nước tiếp tục diễn biến phức tạp hơn; khó khăn thách thức đối với nền kinh tế và hoạt động của doanh nghiệp ngày càng tăng, tạo sức ép lớn đối với ổn định kinh tế vĩ mô, tác động tới phục hồi và phát triển của nhiều ngành, lĩnh vực.
Tăng trưởng GDP quý I/2023 đạt 3,32%, thấp hơn nhiều so với mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ đề ra kịch bản tăng trưởng GDP quý I là 5,6%. Tăng trưởng chủ yếu nằm ở 02 khu vực dịch vụ và nông - lâm - thủy sản, trong khi khu vực công nghiệp vốn luôn là động lực dẫn dắt tăng trưởng kinh tế nhưng lại đang suy giảm.
Trong bối cảnh đó, nhiều doanh nghiệp đã sa thải hoặc giãn việc một số lượng lớn công nhân do doanh nghiệp bị cắt giảm hoặc không có đơn hàng, khiến đời sống một bộ phận người lao động gặp nhiều khó khăn. Thực tế này đang đặt ra nhiều thách thức đối với mục tiêu tăng trưởng cả năm 2023.
“Do đó, đòi hỏi cần có thêm giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp, người dân và nền kinh tế để có thể tiếp tục duy trì đà phục hồi.” – Tờ trình của Bộ Tài chính nêu rõ.
Không giảm thuế thu nhập cá nhân
Dẫn kinh nghiệm của nhiều quốc gia đã thực hiện trong thời gian qua, Bộ Tài chính cho biết, để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân, các nước thường áp dụng các gói gồm nhiều biện pháp chính sách mà trọng tâm là hỗ trợ các doanh nghiệp gặp khó khăn về dòng tiền, vốn trong những ngành chịu ảnh hưởng nặng nhất thông qua chính sách tiền tệ như hạ lãi suất cho vay và đẩy mạnh hoạt động cho vay, giãn nợ ngân hàng; bên cạnh đó là các giải pháp kết hợp để giảm gánh nặng thanh toán gồm cắt giảm chi phí kinh doanh (giảm tiền thuê mặt bằng, tiền thuê đất, phí dịch vụ), gia hạn thời hạn nộp thuế; tăng chi tiêu cho an sinh xã hội, hỗ trợ tiền mặt cho người dân; đẩy mạnh đầu tư công vào các lĩnh vực then chốt như hạ tầng, công nghệ...
Giải pháp về thuế mà các nước đã áp dụng, theo Bộ Tài chính, chủ yếu tập trung vào các sắc thuế nhằm giải quyết trực tiếp vấn đề khó khăn về dòng tiền cho doanh nghiệp như gia hạn thời hạn nộp thuế; giảm thuế GTGT, thuế TNDN, giảm tiền thuê đất và không miễn giảm các loại thuế TTĐB, thuế tài nguyên, thuế bảo vệ môi trường (trừ thuế BVMT đối với mặt hàng xăng dầu do là mặt hàng thiết yếu, có ảnh hưởng rộng khắp tới hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống người dân) bởi các sắc thuế này chỉ thu vào một nhóm hàng hóa, dịch vụ nhất định và không mang tính phổ quát đến mọi doanh nghiệp, tổ chức, hộ gia đình, cá nhân (thuế TTĐB thu vào nhóm hàng hóa, dịch vụ cơ bản không khuyến khích sản xuất hoặc hạn chế tiêu dùng; thuế tài nguyên thu vào hoạt động khai thác tài nguyên khoáng sản; thuế BVMT thu vào sản phẩm, hàng hóa khi sử dụng gây tác động xấu đến môi trường).
“Các nước cũng thường không thực hiện giải pháp giảm thuế TNCN mà hỗ trợ thông qua phát tiền mặt trực tiếp cho người dân.”- Bộ Tài chính cho hay.
Theo Bộ Tài chính, trong thời gian qua, Việt Nam cũng đã thực hiện nhiều giải pháp hỗ trợ về gia hạn thời hạn nộp thuế (đối với các sắc thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế TTĐB và tiền thuê đất), giảm thuế (thuế TNDN, thuế TNCN, thuế GTGT, thuế nhập khẩu và thuế bảo vệ môi trường đối với các mặt hàng xăng, dầu) và tiền thuê đất; miễn, giảm các khoản thu phí, lệ phí.
“Tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện các giải pháp hỗ trợ thời gian qua thì các giải pháp có hiệu quả cao, tác động tích cực ngay tới hoạt động của doanh nghiệp, người dân tập trung vào gia hạn thời hạn nộp thuế; giảm thuế GTGT; giảm thuế BVMT (đối với các mặt hàng xăng, dầu) và giảm tiền thuê đất; giảm các khoản thu phí, lệ phí.” – Bộ Tài chính phân tích.
Về rà soát thêm một số sắc thuế khác có thể xem xét giảm nghĩa vụ, Bộ Tài chính cho biết còn có thuế sử dụng đất phi nông nghiệp, tuy nhiên tính hiệu quả không cao do số thu từ sắc thuế này thấp (chỉ hơn 2 nghìn tỷ đồng mỗi năm, chiếm 0,13% tổng thu NSNN; trong khi các quốc gia khác có sử dụng sắc thuế này để giảm nghĩa vụ cho doanh nghiệp, người dân thì số thu từ sắc thuế này khoảng 5% tổng thu hàng năm).
Giảm thuế GTGT |
Giảm 2% thuế GTGT, giảm thu ngân sách hơn 35.000 tỷ đồng
Với những phân tích trên, ngoài các giải pháp đã và đang được triển khai thực hiện cho năm như gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất; giảm tiền thuê đất; giảm thuế BVMT đối với các mặt hàng xăng, dầu…, Bộ Tài chính cho rằng, cần tiếp tục thực hiện giảm thuế GTGT như đã áp dụng năm 2022 nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, người dân.
Cụ thể: Bộ Tài chính đề xuất giảm 2% mức thuế suất thuế GTGT đối với tất cả các hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 10% (còn 8%); giảm 20% mức tỷ lệ % để tính thuế GTGT đối với cơ sở kinh doanh (bao gồm cả hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh) khi thực hiện xuất hóa đơn đối với tất cả các hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 10% trong năm 2023.
Giải thích cho lý do đưa ra lựa chọn này, Bộ Tài chính cho biết: Luật thuế GTGT hiện hành quy định 02 mức thuế suất thuế GTGT 5% và 10% (không kể mức 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu; đối tượng không chịu thuế GTGT). Số thuế phải nộp = số thuế GTGT đầu ra - số thuế GTGT đầu vào. Hàng hóa, dịch vụ mua vào của cơ sở kinh doanh có loại áp dụng thuế suất 10%, 5% hoặc không chịu thuế GTGT. Do vậy, đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 5% thì cơ bản số thuế GTGT đầu ra nhỏ hơn số thuế GTGT đầu vào nên cơ sở kinh doanh thường không phát sinh số thuế GTGT phải nộp. Đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT 10% thì sẽ phát sinh số thuế GTGT phải nộp (thuế GTGT đầu ra lớn hơn thuế GTGT đầu vào).
Nhằm mục tiêu kích cầu tiêu dùng, phục hồi và phát triển kinh tế, năm 2022 Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 43/2022/QH15 ngày 11/01/2022 về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có chính sách giảm 2% thuế suất thuế GTGT năm 2022. Việc giảm thuế GTGT tổng cộng khoảng 44 nghìn tỷ đồng đã góp phần kích cầu tiêu dùng, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện đã gặp khó khăn cho cả người nộp thuế và cơ quan thuế khi xác định hàng hóa, dịch vụ không thuộc đối tượng được giảm thuế. Quy định loại trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ như tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 tăng chi phí tuân thủ cho người nộp thuế và chi phí hành thu của cơ quan thuế (nhiều loại hàng hóa, dịch vụ khi xác định đối tượng không được giảm thuế cần có sự phối hợp của nhiều Bộ, ngành liên quan).
Về thời gian áp dụng, Bộ Tài chính đề nghị: Kể từ khi chính sách được ban hành đến hết ngày 31/12/2023.
Đánh giá tác động, Bộ dự kiến số giảm thu NSNN khoảng 5,8 nghìn tỷ/tháng, nếu áp dụng trong 06 tháng cuối năm thì tương đương khoảng 35 nghìn tỷ đồng.
Để khắc phục và bù đắp các tác động đến thu NSNN trong ngắn hạn cũng như đảm bảo sự chủ động trong điều hành dự toán NSNN, Bộ Tài chính cho biết sẽ phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan và địa phương chú trọng chỉ đạo thực hiện và triển khai hiệu quả các Luật thuế; tiếp tục cải cách hiện đại hóa hệ thống thuế, đơn giản hóa thủ tục hành chính thuế; đồng thời quyết liệt công tác quản lý thu NSNN, tập trung triển khai kịp thời, có hiệu quả các nhóm giải pháp quản lý thu, chống thất thu, chuyển giá, trốn thuế.
Báo cáo giải trình tiếp thu ý kiến của các Bộ, ngành của Bộ Tài chính cho biết: Có ý kiến đề nghị cần giới hạn đối tượng được giảm thuế giá trị gia tăng (GTGT), chỉ thực hiện giảm thuế đối với các hàng hóa, dịch vụ có khó khăn, những lĩnh vực vẫn tăng trưởng, phát triển tốt, hoặc nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt (TTĐB) thì không nên giảm thuế. Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau: Năm 2022, giải pháp giảm thuế suất thuế GTGT 2% theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 đã góp phần giảm giá thành hàng hóa, dịch vụ, từ đó thúc đẩy sản xuất kinh doanh và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Tuy nhiên, việc thực hiện giải pháp giảm thuế suất thuế GTGT không áp dụng chung cho tất cả các hàng hóa, dịch vụ chịu thuế GTGT thuế suất 10% mà loại trừ một số nhóm hàng hóa, dịch vụ như: nhóm hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, các lĩnh vực vẫn có sự tăng trưởng phát triển tốt, thời gian áp dụng chính sách trong 11 tháng, vì vậy trong quá trình thực hiện cũng gặp một số khó khăn, vướng mắc về: (1) Cách xác định hàng hóa, dịch vụ giảm thuế GTGT; (2) Thời điểm lập hóa đơn; (3) Lập hóa đơn riêng đối với hàng hóa, dịch vụ được giảm thuế GTGT; (4) Mô tả hàng hóa tại Phụ lục kèm Nghị định số 15/2022/NĐ-CP dựa trên Danh mục Hệ thống ngành sản phẩm Việt Nam hiện nay không tương ứng với mô tả hàng hóa tại Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu Việt Nam dẫn đến khó khăn khi xác định mã HS đối với hàng hóa nhập khẩu tại các Phụ lục; (5) Một số vướng mắc khác cần có sự phối hợp của các Bộ chức năng. Nguyên nhân chủ yếu là do có sự khác nhau giữa tên của các nhóm hàng hóa, dịch vụ không được giảm thuế tại Nghị quyết 43/2022/QH15 với mã ngành sản phẩm Việt Nam cũng như mã HS của hàng hóa nhập khẩu. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế TTĐB, theo Hiệp hội bia - rượu - nước giải khát Việt Nam, Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam thì hiện nay các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh (chi phí nguyên vật liệu đầu vào tăng cao, sản lượng tiêu thụ giảm do cầu giảm,...) nên các Hiệp hội kiến nghị tiếp tục kéo dài thời gian triển khai Nghị quyết số 43/2022/QH15 về giảm thuế và xem xét áp dụng đối với tất cả các doanh nghiệp để phù hợp với tình hình hiện nay. Theo đánh giá tại Nghị quyết số 50/NQ-CP ngày 08/4/2023 của Chính phủ thì nền kinh tế nước ta còn những hạn chế, bất cập và tiếp tục gặp nhiều khó khăn, thách thức; tăng trưởng kinh tế quý 1 năm 2023 chưa đạt kịch bản đề ra; một số ngành công nghiệp chủ lực và nhiều địa phương công nghiệp trọng điểm suy giảm hoặc tăng trưởng thấp. Thời gian tới, dự báo tình hình kinh tế, chính trị, an ninh toàn cầu tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường: tăng trưởng kinh tế toàn cầu suy giảm; nguy cơ suy thoái, rủi ro trên các thị trường tài chính, tiền tệ, bất động sản thế giới gia tăng. Nước ta tiếp tục gặp khó khăn, thách thức rất lớn, nhất là do những tác động, ảnh hưởng lớn của các yếu tố bất lợi từ bên ngoài và những hạn chế, bất cập nội tại nền kinh tế kéo dài từ nhiều năm. Từ những giải trình ở trên, nhằm đảm bảo đúng mục tiêu kích cầu tiêu dùng, phù hợp với bối cảnh kinh tế hiện nay, qua đó thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh sớm phục hồi và phát triển để đóng góp trở lại cho NSNN cũng như nền kinh tế, Bộ Tài chính đề nghị thực hiện giảm thuế GTGT đối với tất cả các hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng áp dụng thuế suất 10%. Về hoạt động mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng Có ý kiến đề nghị quy định rõ hoạt động mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý, cơ sở kinh doanh nộp thuế theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng có thuộc đối tượng được giảm thuế GTGT theo dự án Nghị quyết hay không? Về vấn đề này, Bộ Tài chính có ý kiến như sau: Theo quy định của Luật thuế GTGT thì i) hoạt động mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý thuộc đối tượng chịu thuế GTGT thuế suất 10%; ii) cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động này thực hiện nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp trên giá trị gia tăng: Số thuế giá trị gia tăng phải nộp bằng giá trị gia tăng nhân với thuế suất thuế giá trị gia tăng. Như vậy, nếu dự án Nghị quyết được thông qua thì hoạt động mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý cũng thuộc đối tượng được giảm thuế suất thuế GTGT, người tiêu dùng và cơ sở sản xuất kinh doanh mua bán, chế tác vàng, bạc, đá quý sẽ được hỗ trợ như các hàng hóa, dịch vụ khác. Về kinh nghiệm quốc tế trong việc hỗ trợ doanh nghiệp, người dân Có ý kiến đề nghị bổ sung kinh nghiệm quốc tế về giảm thuế GTGT của các nước trên thế giới để hỗ trợ doanh nghiệp, người dân trong giai đoạn kinh tế khó khăn, sức cầu suy giảm. Về vấn đề này, Bộ Tài chính đã tiếp thu và bổ sung vào phần kinh nghiệm quốc tế tại Tờ trình Chính phủ. |