- ĐBQH Tô Ái Vang (Sóc Trăng) đặc biệt quan tâm đến vấn đề vốn vay của doanh nghiệp và đề nghị giảm thuế VAT từ 3-4% thay vì 2%; kéo dài việc giảm thuế đến hết năm 2024 và có cơ chế cho vay linh hoạt hơn…
Tham gia thảo luận tại Hội trường Quốc hội sáng ngày 41/5, ĐBQH Tô Ái Vang (Sóc Trăng) cho biết, từ đầu năm 2023, NHNN đã có 3 đợt giảm lãi suất điều hành. Đây được xem là sự nỗ lực rất lớn của NHNN để hỗ trợ người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay doanh nghiệp cũng khó tiếp cận với vốn vay.
Đặt câu hỏi “Vậy nguyên nhân từ đâu?”, ĐB Tô Ái Vang cho rằng, hiện nay hệ thống ngân hàng đang đối mặt với 3 tác động chính.
ĐB phân tích:
Thứ nhất, hệ thống ngân hàng là kênh cung ứng vốn chủ yếu cho nền kinh tế, trong khi hệ thống ngân hàng huy động khoảng 88% tiền gửi với kỳ hạn 12 tháng trở xuống nhưng vẫn phải đáp ứng trên 52% dư nợ tín dụng của cả hệ thống là trung hạn và dài hạn nên tạo sức ép lên lãi suất huy động, đồng thời do mặt bằng lãi suất thế giới gia tăng, buộc các ngân hàng lớn trên thế giới vẫn tiếp tục triển khai lộ trình thắt chặt chính sách tiền tệ và duy trì lãi suất ở mức độ cao.
Thứ hai, thực tế hệ thống ngân hàng vẫn đang trong quá trình tái cơ cấu và xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng, nâng cấp chuẩn mực quản trị điều hành theo thông lệ quốc tế. Việc sử dụng lãi suất tái cấp vốn là nghiệp vụ diễn ra khi một số ngân hàng đang gặp khó khăn lớn về thanh khoản buộc phải vay vốn từ NHNN, khi không vay được thông qua kênh liên ngân hàng.
Thứ ba, đó là các doanh nghiệp nhỏ và vừa không tiếp cận được vốn vay vì không còn tài sản đảm bảo hoặc tình hình tài chính yếu kém. Nhiều doanh nghiệp không được giải ngân, chuyển sang nhóm nợ xấu do ngân hàng vẫn phải đảm bảo khả năng thanh toán tài sản thế chấp.
Đại biểu Tô Ái Vang - Đoàn ĐBQH tỉnh Sóc Trăng |
Từ những phân tích trên, ĐB Tô Ái Vang đưa ra 2 kiến nghị.
Thứ nhất, theo ĐB, trước những vấn đề đặt ra buộc NHNN phải quy định trần room tín dụng. Tuy nhiên, tỷ lệ bắt buộc mà mỗi ngân hàng phải đảm bảo chính là hệ số an toàn trong các lĩnh vực cùng với dự trữ bắt buộc đã giúp NHNN kiểm soát lạm phát nên chỉ cần NHNN sử dụng nhiều công cụ dự trữ bắt buộc cùng với áp dụng quy định hệ số an toàn kèm theo thì đã giúp các ngân hàng tự điều chỉnh mà không lệ thuộc quá nhiều vào trần room tín dụng.
“Vì thế, NHNN cần có phương thức điều hành linh hoạt, đó là giao tổng room từ đầu năm và điều hành trên cơ sở kế hoạch được lập ra bởi sự thỏa thuận giữa ngân hàng với khách hàng, tránh tình trạng nửa đầu năm tăng tốc, cuối năm hết room hoặc là bị siết lại một cách đột ngột, làm cho doanh nghiệp có thể đi đến vỡ kế hoạch trong đầu tư hoặc là trong sản xuất, kinh doanh.” – ĐB Tô Ái Vang nêu rõ kiến nghị.
Thứ hai, ĐB đề nghị NHNN xem xét có cơ chế cho vay linh hoạt, đa dạng, nhất là các gói cho vay tín chấp dựa trên thời gian hoạt động có hiệu quả và dòng tiền của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, NHNN cần chỉ đạo các ngân hàng thương mại rà soát lại toàn bộ thủ tục, điều kiện tín dụng, tăng khả năng tiếp cận vốn vay của doanh nghiệp, đẩy nhanh giải ngân gói hỗ trợ lãi suất, triển khai hiệu quả chính sách cơ cấu lại thời hạn trả nợ, giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện chính sách giảm thuế giá trị gia tăng 2% theo Nghị quyết 43 của Quốc hội khóa XV. Nếu được Quốc hội chấp nhận thì sẽ ban hành nghị quyết và áp dụng sớm nhất là từ tháng 6 hoặc từ tháng 7/2023 đến cuối năm 2023.
Ngoài ra, ĐB Tô Ái Vang cho biết rất đồng tình với Tờ trình của Chính phủ cũng như Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tài chính, Ngân sách và đề nghị bổ sung 3 kiến nghị.
Một, Chính phủ huy động các kênh thông tin, làm tốt công tác truyền thông để người tiêu dùng biết và đón nhận. Bởi vì, việc giảm thuế giá trị gia tăng người tiêu dùng có thể thấy rõ nhất ở siêu thị, trung tâm thương mại, cửa hàng tiện lợi vì có thể kiểm tra trên hóa đơn, trong khi các chợ truyền thống, cửa hàng nhỏ lẻ, tiệm tạp hóa thì người mua và người bán tự thỏa thuận giá trong đó có bao gồm cả thuế. Họ cũng không biết nếu giảm thuế giá trị gia tăng thì được giảm bao nhiêu tiền. Điều này sẽ dẫn đến tình trạng thiếu đồng bộ, cũng đồng nghĩa là người tiêu dùng tiếp tục chịu thiệt thòi, nên phải tăng cường truyền thông để mọi người dân được hiểu và áp dụng.
Thứ hai, Quốc hội xem xét mức giảm thuế Giá trị gia tăng xuống từ 3-4%, vì theo ĐB, “nếu chỉ giảm 2% thì chưa phải là mức tốt cho nền kinh tế.”
“Trong bối cảnh các nước đang cạnh tranh bằng cách giảm gánh nặng thuế cho doanh nghiệp để thu hút đầu tư thì chúng ta cũng nên xem xét giảm thuế giá trị gia tăng ở mức cao hơn, là từ 3-4% để khuyến khích tiêu dùng, tăng sức mua, từ đó doanh nghiệp có thể tiêu thụ hàng hóa nhiều hơn, giải phóng được lượng hàng tồn kho, sớm phục hồi sản xuất, kinh doanh, góp phần vực dậy doanh nghiệp, góp phần cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội ở các địa phương và trong cả nước.” – ĐB Tô Ái Vang phaant ích.
Thứ ba, ĐB đề nghị Quốc hội xem xét áp dụng giảm thuế giá trị gia tăng kéo dài đến hết năm 2024.
Lý giải cho đề nghị này, ĐB Tô Ái Vang cho biết, thực tế, các cuộc khủng hoảng về địa chính trị, năng lượng, đứt gãy chuỗi sản xuất, cung ứng khiến số lượng đơn hàng giảm mạnh đã tác động tiêu cực đến xuất khẩu của một số nhóm hàng chủ lực của Việt Nam. Hiện nay thị trường nước ngoài đã tác động đến doanh nghiệp, đó là sự giảm sút trong tiêu dùng của các nước trên thế giới. Chuỗi cung ứng toàn cầu tiếp tục đứng trước nguy cơ bị gián đoạn, đứt gãy, dẫn đến nhiều hệ lụy cho hoạt động sản xuất, nhập khẩu và tăng trưởng kinh tế; sản lượng và số lượng đơn đặt hàng mới tiếp tục giảm ở một số ngành; giá nguyên vật liệu liên tục gia tăng ở thị trường trong nước, v.v..
“Vì thế, việc kéo dài thời gian giảm thuế giá trị gia tăng đến hết năm 2024 sẽ giúp cho chính sách này mang tính bền vững, lâu dài, giúp cho doanh nghiệp xây dựng các phương án kinh doanh ổn định.” – ĐB tỉnh Sóc Trăng nhấn mạnh.