- Báo cáo Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính Công cấp tỉnh (PAPI) năm 2020 vừa được công bố cho thấy, hiệu quả quản trị và hành chính công trong nhiệm kỳ 2016-2021 của Chính phủ liên tục được cải thiện. Đặc biệt, chỉ số kiểm soát tham nhũng trong khu vực công được cải thiện mạnh mẽ nhất.
Trong 8 tiêu chí để xếp hạng PAPI 2020, "Kiểm soát tham nhũng trong khu vực công" là một trong những tiêu chí được quan tâm nhiều nhất. Theo đó, Báo cáo đánh giá trải nghiệm của người dân đối với hiệu quả hoạt động của các cấp chính quyền trong quản trị, hành chính công và cung ứng dịch vụ công. Kết quả trình bày trong báo cáo cho thấy kể từ năm 2016, lĩnh vực kiểm soát tham nhũng trong lĩnh vực công đã được cải thiện đáng kể qua từng năm. Trách nhiệm giải trình với người dân cũng từng bước được cải thiện trong nhiệm kỳ 2016-2021. Ngày càng có nhiều người dân tương tác với chính quyền cấp cơ sở, nhất là với trưởng thôn/tổ trưởng dân phố và đại biểu Hội đồng nhân dân. Trong khi đó, điểm số của những lĩnh vực tham gia của người dân ở cấp cơ sở (Chỉ số nội dung thứ 1) và Thủ tục hành chính công (chỉ số nội dung thứ 5) cho thấy có sự giảm sút.
Theo báo cáo, 18 tỉnh, thành phố có tiến bộ rõ rệt so với kết quả năm 2019. Như nhiều năm trước, Bến Tre tiếp tục đứng trong nhóm 16 tỉnh/thành phố đạt điểm cao nhất ở Chỉ số nội dung này.
9 trong 10 địa phương dẫn đầu ở chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kiểm soát sáu loại hành vi tham nhũng ở cán bộ, công chức là các tỉnh miền Trung và phía Nam. Quảng Ninh, Đồng Tháp, Bến Tre, Quảng Trị và Quảng Nam là 5 tỉnh dẫn đầu trong ở chỉ tiêu đo lường mức độ hiệu quả kiểm soát một số hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức.
![]() |
Ảnh minh họa |
So với kết quả năm 2016, kết quả 2020 cho thấy mối quan hệ thân quen (hiện trạng ‘vị thân’) trong tuyển dụng nhân lực vào khu vực nhà nước có xu hướng giảm trên phạm vi toàn quốc. Rất có thể các cấp chính quyền chú trọng hơn tới công bằng trong tuyển dụng công chức, viên chức. Lào Cai, tỉnh đạt điểm thấp nhất ở tiêu chí công bằng trong tuyển dụng vào khu vực nhà nước năm 2016, đã dịch chuyển lên nhóm trung bình năm 2020 ở chỉ tiêu này.
Đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam Caitlin Wiesen phát biểu: “Những phát hiện nghiên cứu nổi bật từ Báo cáo PAPI 2020 là hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương trong hai nhiệm kỳ (2011-2016 và 2016-2021); trải nghiệm tiếp cận dịch vụ công của người tạm trú tại các tỉnh tiếp nhận nhiều nhập cư, và quan điểm của cử tri về vai trò lãnh đạo của phụ nữ. Được công bố đúng vào thời điểm Chính phủ bắt đầu một nhiệm kỳ mới, PAPI cung cấp dữ liệu sâu rộng về trải nghiệm người dân trong quá trình tương tác với bộ máy chính quyền các cấp của 63 tỉnh, thành phố. PAPI cũng là thước đo quan trọng để các tỉnh, thành phố xem xét và cải thiện hơn nữa hiệu quả hoạt động ở tám lĩnh vực quản trị và hành chính công”.
Bên cạnh những đánh giá trên, Báo cáo cũng chỉ ra rằng những lĩnh vực phụ nữ quan tâm khác với nam giới. Phụ nữ quan tâm nhiều hơn đến công tác xóa đói giảm nghèo, chăm sóc sức khỏe và giáo dục. Phụ nữ ít tham gia vào quá trình ra quyết định ở địa phương và ít tiếp cận với Internet và các dịch vụ chính phủ điện tử hơn. Những khác biệt này nêu bật sự cần thiết phải có đại diện công bằng trong các cơ quan dân cử.
Hơn 14.700 người dân đã được phỏng vấn cho Báo cáo PAPI 2020. Đây là số lượng người dân tham gia đông nhất kể từ khi khảo sát được thực hiện trên toàn quốc lần thứ nhất vào năm 2011. Đây cũng là lần đầu tiên khảo sát thu thập ý kiến của người dân đăng ký tạm trú. Hơn 300 người di cư đã được khảo sát tại sáu tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Bắc Ninh, Đà Nẵng, Đồng Nai, và Bình Dương).
Thông tin do người dân tạm trú cung cấp giúp các cấp chính quyền hiểu rõ hơn về tác động của di cư trong nước đối với hiệu quả quản trị và hành chính công của tỉnh. Phân tích cho thấy, người dân di cư có xu hướng nghèo hơn và có ít tài sản hơn và thu nhập thấp hơn so với người dân thường trú và họ thường là phụ nữ. Vì vậy, trải nghiệm của người dân di cư rất khác so với người dân thường trú trong cùng một địa bàn dân cư. Dữ liệu này rất quan trọng trong việc xây dựng các giải pháp quản trị bao trùm, không để người dân di cư bị bỏ lại phía sau.
Bà Wiesen nhấn mạnh: “Để thu hẹp những khoảng cách này, các tỉnh tiếp nhận người di cư trong nước cần tập trung giải quyết nhu cầu về thông tin và những mong đợi của tất cả mọi người dân, cả thường trú và tạm trú. Nỗ lực xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và cấp thẻ căn cước công dân số hóa hiện nay là những bước đi đúng hướng của Chính phủ. Một mã số nhận dạng thống nhất sẽ tạo điều kiện cho người dân có thể tiếp cận quản trị và dịch vụ công một cách bình đẳng, bất kể nơi cư trú của họ trong phạm vi Việt Nam”.
Yến Nhi