- Theo ông Trần Ngọc Hùng - Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam, trong quá trình thực thi Luật Đất đai, bên cạnh những kết quả đạt được nhằm tăng cường quản lý đất đai nâng cao hiệu quả sử dụng đất phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế, hiện vẫn còn những bất cập khiến tồn tại tình trạng sử dụng lãng phí, tình trạng tham ô, tham nhũng…
Tại Diễn đàn “Sửa đổi chính sách đất đai để phát triển bền vững” do Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam và Tổng cục Quản lý đất đai vừa đã tổ chức, ông Trần Ngọc Hùng - Chủ tịch Tổng hội Xây dựng Việt Nam chia sẻ, trong quá trình thực thi Luật Đất đai, ngoài những kết quả đạt được nhằm tăng cường quản lý đất đai nâng cao hiệu quả sử dụng đất phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế. Nâng cao điều kiện cuộc sống, đảm bảo an ninh Quốc phòng, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập, làm phát sinh nhiều vấn đề nóng. Tình trạng sử dụng lãng phí, tình trạng tham ô, tham nhũng, lợi ích nhóm trong việc thu hồi, cấp, giao, cho thuê đất còn khá phổ biến gây thất thoát lớn.
Đưa ra thông tin về tình hình sử dụng đất đai, TS. Nguyễn Anh Phong (đại diện Tổ chức AgroInfo) cho biết, năm 2016 cả nước có tổng số 9,29 triệu đơn vị sản xuất nông nghiệp thì số hộ chiếm 99,89%; số doanh nghiệp chỉ chiếm 0,04% và số hợp tác xã chiếm 0,07%. Trong đó, hộ sử dụng đất nông nghiệp dưới 0,2 ha chiếm 36,1% tổng số hộ; hộ sử dụng từ 5,0 ha đất trở lên chỉ chiếm 2,3%; số doanh nghiệp nông nghiệp có số lao động dưới 10 người chiếm 49%; trang trại chiếm tỷ lệ 0,3% trong tổng số hộ nông nghiệp của Việt Nam.
TS. Nguyễn Anh Phong cho rằng, khó khăn đối với việc tích tụ và tập trung đất nông nghiệp thể hiện ở các quy định pháp lý hiện nay chưa phù hợp, chính sách hỗ trợ chưa đầy đủ, khó áp dụng…

Trong khi đó, theo TS.Phạm Xuân Phương- Viện quản lý rừng bền vững và Chứng chỉ rừng, Luật Lâm nghiệp được Quốc hội thông qua vào tháng 11/2017 và có hiệu lực từ 1/1/2019, ngoài việc kế thừa Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 2004, Luật Lâm nghiệp 2017 đã bổ sung một số quy định mới phù hợp với bối cảnh của đất nước, như điều chỉnh về phân loại rừng, giao rừng, cho thuê rừng, chuyển loại rừng, chuyển mục đích sử dụng rừng… , trong khi đó Luật Đất đai được Quốc hội thông qua vào năm 2013 đến nay đã có điểm không còn phù hợp với thực tế nói chung và với Luật Lâm nghiệp nói riêng. Quốc hội đã có kế hoạch sửa đổi Luật Đất đai cho phù hợp với yêu cầu phát triển và thực tiễn quản lý lâm nghiệp Việt Nam, đồng thời tránh sự trồng chéo bất cập giữa 2 Luật.
Đưa ra điểm qua các bất cập giữa 2 Luật, TS. Phạm Xuân Phương nêu: “Luật Lâm nghiệp quy định rừng tín ngưỡng (rừng ma, rừng thiêng...) thuộc rừng đặc dụng, trong khi đó Luật Đất đai quy định đất tín ngưỡng thuộc đất phi nông nghiệp. - Luật Lâm nghiệp quy định khu rừng nghiên cứu thực nghiệm khoa học, vườn thực vật quốc gia, rừng giống quốc gia thuộc rừng đặc dụng, trong khi đó Luật Đất đai quy định các loại đất này thuộc đất phi nông nghiệp”.
Trong khi Luật Đất đai quy định quy hoạch sử dụng đất 03 cấp: quốc gia, tỉnh, huyện; kỳ quy hoạch sử dụng đất là 10 năm, kỳ kế hoạch sử dụng đất cấp quốc gia, cấp tỉnh là 05 năm; kế hoạch sử dụng đất cấp huyện được lập hàng năm… thì theo Luật Lâm nghiệp chỉ có quy hoạch lâm nghiệp cấp quốc gia với thời gian là 10 năm, trong đó có nội dung định hướng phát triển rừng đặc dụng, rừng phòng hộ, rừng sản xuất ở cấp quốc gia (Luật Quy hoạch quy định quy hoạch sử dụng đất cấp quốc gia).
Về đối tượng giao đất, giao rừng, Luật Đất đai (Điều 137) quy định Nhà nước giao đất rừng đặc dụng cho tổ chức quản lý rừng đặc dụng, trong khi đó không có giải thích cụm từ “tổ chức quản lý rừng” là tổ chức nào? (có thể chỉ hiểu là ban quản lý rừng đặc dụng hay còn tổ chức khác?), trong khi đó Luật Lâm nghiệp (Điều 16) quy định cụ thể giao rừng đặc dụng cho từng loại chủ rừng (Ban quản lý rừng đặc dụng, tổ chức kinh tế, và cả cộng đồng dân cư…).
Theo TS. Phạm Xuân Phương, việc sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai để tương thích với Luật Lâm nghiệp là cần thiết để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn và góp phần bảo đảm tính thống nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Bên cạnh việc đưa ra những bất cập, TS Pham Xuân Phương cũng kiến nghị, cần tiến hành rà soát một cách chi tiết giữa Luật Đất đai và Luật Lâm nghiệp và các văn bản hướng dẫn thực hiện 2 luật này; phát hiện những bất cập về các quy định giữa 2 luật này. Đồng thời, cần tổ chức nghiên cưu, tham vấn tại một số địa phương có rừng, đại diện cho các vùng sinh thái của Việt Nam trên cơ sở đã có kết quả rà soát văn bản; Xây dựng Báo cáo kết quả rà soát và khảo sát thực tế về những bất cập giữa 2 luật; Đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai để tương thích với Luật Lâm nghiệp.
Minh Ngọc