- Theo công bố của Tập đoàn điện lực Việt Nam (EVN), kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh điện năm 2018 của EVN lãi 698,701 tỷ đồng, tương ứng tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm 2018 là 0,47%.
Hôm nay (18/12), tại Hà Nội, Bộ Công Thương tổ chức công bố kết quả kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2018 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam và Kế hoạch cung cấp điện và vận hành hệ thống điện quốc gia năm 2020.
Lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu của EVN năm 2018 là 0,47%
Theo ông Nguyễn Anh Tuấn - Cục trưởng Cục Điều tiết điện lực (Bộ Công Thương), thực hiện Quyết định số 24/2017/QĐ-TTg ngày 30 tháng 6 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ về cơ chế điều chỉnh mức giá bán lẻ điện bình quân, Bộ Công Thương đã ban hành Quyết định số 2668/QĐ-BCT ngày 29 tháng 8 năm 2019 về việc kiểm tra chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2018 của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN).
Ông Nguyễn Anh Tuấn cho biết, tổng chi phí sản xuất kinh doanh điện năm 2018 là 332.284,64 tỷ đồng bao gồm chi phí sản xuất kinh doanh điện của các khâu phát điện, truyền tải điện, phân phối - bán lẻ điện và phụ trợ - quản lý ngành. Giá thành sản xuất kinh doanh điện năm 2018 là 1.727,41 đ/kWh, tăng 3,58% so với năm 2017.
Sản lượng điện thương phẩm thực hiện năm 2018 là 192,36 tỷ kWh, tăng 10,14% so với năm 2017. Doanh thu bán điện năm 2018 là 332.983,34 tỷ đồng, tăng 14,84% so với năm 2017. Giá bán điện thương phẩm bình quân thực hiện năm 2018 là 1.731,04 đ/kWh, tăng 4,3% so với năm 2017.
“Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh điện năm 2018 của EVN lãi 698,701 tỷ đồng, tương ứng tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu năm 2018 là 0,47%”, ông Nguyễn Anh Tuấn cho hay.
Liên quan đến các khoản chi phí chưa tính vào giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2018, Thứ trưởng Bộ Công Thương Hoàng Quốc Vượng cũng cho biết, theo quy định tại Quyết định số 34/2017/QĐ-TTg ngày 25/7/2017 của Thủ tướng Chính phủ về khung giá của mức giá bán lẻ điện bình quân giai đoạn 2016-2020, một phần khoản chênh lệch tỷ giá thực hiện theo hợp đồng mua bán điện của năm 2015 và khoản chênh lệch tỷ giá của cả năm 2017 sẽ được đưa vào chi phí năm 2018.
Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Hoàng Quốc Vượng, do năm 2018 không điều chỉnh giá điện nên hai khoản chênh lệch tỷ giá này với tổng giá trị khoảng 3.090,9 tỷ đồng được treo lại và chưa tính vào giá thành sản xuất, kinh doanh điện năm 2018.
Tỷ giá, giá tăng… tăng đã tác động lên giá điện
Đưa ra giá thành sản xuất kinh doanh điện của từng khâu, Bộ Công Thương cho biết, trong năm 2018, tổng chi phí khâu phát điện là 255.679,98 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phát điện theo điện thương phẩm là 1.329,17 đ/kWh. So với năm 2017, chi phí khâu phát điện năm 2018 tăng do tổng lượng nước về hồ chứa thủy điện đạt khoảng 365 tỷ m3, thấp hơn khoảng 12 tỷ m3 so với năm 2017, do đó, sản lượng điện từ thủy điện năm 2018 thấp hơn năm 2017, sản lượng điện huy động từ các nguồn điện khác như nhiệt điện than, tua bin khí, năng lượng tái tạo… cao hơn so với 2017.
Bên cạnh đó, năm 2018, mặc dù giá than nội địa ổn định, tuy nhiên, giá than nhập khẩu năm 2018 tăng mạnh, cụ thể: giá than Coalfax và giá than NewCastle Index bình quân năm 2018 tăng so với năm 2017 lần lượt là 20,42% và 21,34%.
Giá than nhập khẩu tăng làm tăng chi phí mua điện từ các nhà máy điện sử dụng than nhập khẩu như Formosa Đồng Nai, Formosa Hà Tĩnh và Duyên Hải 3.
Về giá dầu, Bộ Công Thương cũng cho hay, giá dầu trong nước gồm Diesel (DO), dầu Mazut (FO): giá dầu DO và giá dầu FO bình quân năm 2018 tăng so với 2017 lần lượt là 22% và 20,7%. Giá dầu tăng đã làm tăng chi phí mua điện khi huy động các nhà máy nhiệt điện chạy dầu. Giá dầu HSFO thế giới năm 2018 tăng cao so với năm 2017 khoảng 31,9%.
Liên quan đến vấn đề tỷ giá, thông tin tại cuộc họp báo cũng cho biết, tỷ giá đô la Mỹ bình quân năm 2018 tăng 1,37% so với năm 2017. Tỷ giá tăng làm tăng chi phí mua điện từ các nguồn điện có giá mua theo hợp đồng bằng USD hoặc giá mua nhiên liệu bằng USD như các nhà máy nhiệt điện khí, nhiệt điện than sử dụng than nhập khẩu (như cụm các nhà máy điện Phú Mỹ EVN, Phú Mỹ BOT, Nhơn Trạch 1&2, Bà Rịa, Cà Mau 1&2, Formosa Đồng Nai, Formosa Hà Tĩnh, Duyên Hải 3, Cần Đơn, nhập khẩu điện từ Trung Quốc, Lào) và các nhà máy sử dụng năng lượng tái tạo khác.
Ngoài ra, còn có các khoản thuế, phí và tiền phải nộp theo quy định. Trong đó, thuế tài nguyên nước năm 2018 tăng so với năm 2017, cụ thể: thuế tài nguyên nước năm 2018 bằng 5% giá bán lẻ điện bình quân hiện hành (1.720,65 đồng/kWh); thuế tài nguyên nước 11 tháng đầu năm 2017 bằng 5% giá bán lẻ điện bình quân hiện hành (1.622,01 đồng/kWh). Phí môi trường rừng tăng từ 20 đồng/kWh năm 2017 lên 36 đồng/kWh năm 2018.
Đối với khâu truyền tải điện, tổng chi phí khâu truyền tải điện là 19.690,95 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu truyền tải điện theo điện thương phẩm là 102,36 đ/kWh. Tổng chi phí khâu truyền tải điện bao gồm khoản phân bổ số dư chênh lệch tỷ giá chưa được tính vào giá thành điện tại 31/12/2015 của Tổng công ty Truyền tải điện quốc gia với giá trị phân bổ năm 2018 là 1.828,22 tỷ đồng.
Tổng chi phí khâu phân phối - bán lẻ điện là 55.590,90 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phân phối - bán lẻ điện theo điện thương phẩm là 288,99 đ/kWh. Tổng chi phí khâu phụ trợ - quản lý ngành là 1.322,81 tỷ đồng, tương ứng với giá thành khâu phụ trợ - quản lý ngành theo điện thương phẩm là 6,88 đ/kWh.
Yến Nhi