
Sáng nay (11/7), Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) đã tổ chức buổi Tọa đàm công bố Báo cáo kinh tế vĩ mô quý 2/2019.
CPI bình quân tăng thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây
Ông Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR) cho biết, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân quý 2/2019 tăng 2,65% so với cùng kì năm 2018 và tăng 0,74% so với quý 1/2019. CPI giảm nhẹ liên tục trong vòng ba tháng lần lượt tại mức 2,93%, 2,88% và 2,16%.
Mặc dù vậy, ông Thành cũng cho biết, tháng 4 và 5 vẫn trải qua mức lạm phát cao so với các tháng trước đó lần lượt 0,31% và 0,49%. Nguyên nhân chính do bốn lần tăng mạnh giá xăng dầu và việc tăng giá điện từ ngày 20/3 tạo sức ép lên giá các loại hàng hóa khác đặc biệt nhóm hàng giao thông; nhà ở và vật liệu xây dựng.
Tuy nhiên, trong tháng 6/2019, CPI giảm xuống mức thấp từ đầu năm đạt 2,16% và 0,09% do hai lần giảm giá xăng dầu liên tiếp vào 01/6 và 17/6 khiến giá xăng, dầu giảm 3,9%. Trong Quý 2/2019, CPI nhóm hàng giáo dục tăng cao nhất bình quân đạt 6,19% do Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam tăng giá sách giáo khoa từ tháng Tư; sau đến nhóm nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 3,6%; và hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng 3,38% do sự điều chỉnh giá xăng dầu, giá điện tăng và giá thịt lợn biến động do dịch tả lợn châu Phi.
![]() |
Tính chung 6 tháng đầu năm 2019, CPI bình quân tăng 2,64% – mức tăng thấp nhất trong vòng ba năm trở lại đây.
Trong khi đó, lạm phát lõi có xu hướng tăng từ 2018 đến nay, bình quân đạt 1,91% trong quý 2/2019 và 1,87% trong sáu tháng đầu năm. Điều này dự báo xu hướng tăng giá của nhóm hàng hóa sau khi loại bỏ các biến động giá năng lượng và lương thực thực phẩm.
“Nền kinh tế sẽ đứng trước nhiều khó khăn trong việc kiểm soát lạm phát sáu tháng cuối năm khi áp lực của bệnh dịch khiến cung thịt lợn ngày càng thu hẹp, giá xăng dầu biến động liên tục và giá hàng hóa dịch vụ giáo dục luôn tăng ở mức cao trên 6% trong vòng hai năm qua”, ông Thành chia sẻ.
Tăng trưởng ở cả ba khu vực kinh tế suy yếu
Theo báo cáo của VEPR, tăng trưởng kinh tế Việt Nam quý 2/2019 đạt mức 6,71%, trong 6 tháng đầu năm đạt 6,76% – các chỉ số đều thấp hơn so với cùng kì năm 2018. So với sáu tháng đầu 2018, cả ba khu vực kinh tế đều tăng trưởng chậm lại.
Thứ nhất, khu vực dịch vụ tăng trưởng ở mức 6,69% thấp hơn so với 6 tháng đầu năm 2018, tuy nhiên những nhóm ngành chủ lực vẫn tăng trưởng ổn định. Bán buôn và bán lẻ tăng trưởng tốt 8,09%, và tiếp tục là ngành có đóng góp quan trọng vào tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế (0,8%); hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 7,9% và hoạt động kinh doanh bất động sản tăng 4,43%.
Thứ hai, ngành nông, lâm, ngư nghiệp tăng trưởng yếu ở mức 2,39%. Dịch tả lợn châu Phi lan trên diện rộng và thời tiết khắc nghiệt tại miền Bắc và Nam khiến năng suất và sản lượng lúa vụ đông xuân giảm do đó ngành nông nghiệp chỉ tăng trưởng 1,3%.
Trong khi đó, nhờ vào cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung khiến nhu cầu tiêu thụ thủy sản tại Mỹ tăng cao, ngành thủy sản tăng trưởng tốt ở mức 6,45%. Tuy nhiên, dưới áp lực gỡ bỏ thẻ vàng của Ủy ban Châu Âu, sản lượng khai khác trong gian đoạn cuối năm có thể giảm, ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng khu vực này.
Thứ ba, khu vực công nghiệp và xây dựng có mức tăng trưởng 8,93% thấp hơn mức 9,1% của cùng kỳ 2018. Ngành công nghiệp chế biến, chế tạo mặc dù tăng trưởng mạnh ở mức 11,18% nhưng vấn thấp hơn so với cùng kì năm trước, đóng góp 2,38 điểm phầm trăm vào kinh tế chung. Trong khi đó, ngành khai khoáng lại tăng trưởng ổn định ở mức 1,78% nhờ vào khai thác than tăng cao.
Cũng theo Báo cáo của VEPR, trong 6 tháng đầu năm, chỉ số sản xuất công nghiệp (IPI) tăng 9,7%, chỉ số tiêu thụ toàn ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tăng 9,6%, nhưng đều thấp hơn so với mức tăng của quý 2/2018. Chỉ số tồn kho bình quân tăng cao theo đà từ năm 2018 lên tới 16,1% - vượt ngưỡng 11,4% của cùng kì năm ngoái. Điều này tiềm ẩn rủi ro về đình trệ sản xuất tạm thời và doanh nghiệp thu hẹp quy mô sản xuất.
Trong khi đó, theo Tổng cục Thống kê, cơ cấu đóng góp của các khu vực kinh tế vào GDP đang di chuyển theo xu hướng thể hiện tính thị trường nhiều hơn: đóng góp của khu vực nhà nước ngày càng giảm, còn 27,67% (năm 2018), trong khi đóng góp của khu vực FDI và ngoài nhà nước ngày càng tăng lần lượt đạt 20,28% và 42,08% (năm 2018). Điều này đặt ra hai vấn đề tầm quan trọng của khu vực ngoài nhà nước với sự lớn mạnh của khu vực tư nhân và quy mô khổng lồ của khu vực phi chính thức, và đánh giá cấu trúc thu ngân sách nhà nước hợp lý tương ứng với cơ cấu này.
Minh Ngọc