- Sự phát triển bùng nổ của cuộc cách mạng kỹ thuật số trong vòng 10 năm qua đã mang lại ‘cơ hội thứ hai’ cho ngành công nghiệp điện ảnh nói riêng, công nghiệp văn hoá và sáng tạo nói chung.
Điện ảnh, không chỉ là một lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, mà còn được xem là một bộ phận của kinh tế sáng tạo (creative economy).
Với sự phát triển và phổ biến của công nghệ số, điện ảnh trở thành một ngành kinh tế tiềm năng, đặc biệt hình thức truyền hình trực tuyến theo yêu cầu (Video on demand/VOD) đem lại lợi ích cho người dùng về cơ hội trải nghiệm dịch vụ theo nhu cầu.
Nói cũng đem lại cho doanh nghiệp cơ hội kinh doanh và cho quốc gia về khả năng quảng bá hình ảnh đất nước cũng như cơ hội tạo ra việc làm, phát triển các ngành nghề liên quan (du lịch, thời trang, ẩm thực, giao thông vận tải).
![]() |
Ảnh minh họa |
Tại tọa đàm Luật Điện ảnh (sửa đổi) với việc phát triển công nghiệp điện ảnh Việt Nam được báo Đại biểu Nhân dân phối hợp cùng Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông tổ chức mới đây, ông Fraser Thompson - Giám đốc Điều hành Công ty tư vấn AlphaBeta (Singapore) đã chia sẻ một con số rất khích lệ rằng nền kinh tế sáng tạo đã và đang đóng góp lớn cho nền kinh tế Việt Nam (chiếm hơn 3% GDP, 6% việc làm và gần 4% kim ngạch xuất khẩu) với tiềm năng tăng trưởng lớn.
VOD là một hệ thống, trong đó người xem truy cập nội dung phim giải trí được lựa chọn theo nhu cầu của họ, thông qua việc sử dụng nhiều thiết bị (điện thoại di động, máy tính, máy tính bảng, TV thông minh…) để truy cập mạng Internet, từ tuyển tập video có sẵn.
Trong khi các công ty như Netflix và Amazon có thể đang nổi tiếng nhất trong lĩnh vực này trên thế giới, một loạt các nền tảng phát trực tuyến video đã được thiết lập ở châu Á và Việt Nam trong những năm gần đây.
Dịch vụ VOD là một phân khúc lớn và đang phát triển trong nền kinh tế sáng tạo với tổng chi tiêu cho nội dung địa phương liên quan đến VOD tại Việt Nam lên tới 7 triệu đô la Mỹ. Con số này có thể đạt khoảng 64 triệu đô la Mỹ vào năm 2025. Lợi ích kinh tế, bao gồm cả chuỗi cung ứng, có thể gấp gần 3 lần con số này.
Hơn 37.000 người tại Việt Nam có thể có việc làm vào năm 2025 nhờ khoản đầu tư vào dịch vụ VOD đó. Ngoài ra, các lợi ích từ khoản đầu tư vào dịch vụ VOD còn lan tỏa sang nhiều lĩnh vực khác, gồm cả du lịch.
Các dịch vụ VOD có thể làm tăng lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam thêm tổng cộng 5,1 triệu lượt và tăng các khoản chi tiêu cho du lịch thêm 5,8 tỷ USD từ năm 2023 đến 2030. Ví dụ, sau khi bộ phim “Kong: Skull Island” quay tại Việt Nam được phát hành, ước tính lượng khách đến thăm Vịnh Hạ Long đã tăng 30%.
Xây dựng chính sách thúc đẩy sự phát triển
Không thể phủ định được sự phát triển bùng nổ của cuộc cách mạng kỹ thuật số trong vòng 10 năm qua đã mang lại ‘cơ hội thứ hai’ cho ngành công nghiệp điện ảnh nói riêng, công nghiệp văn hoá và sáng tạo nói chung.
Theo các chuyên gia, tận dụng được cơ hội này, ngành công nghiệp điện ảnh có thể đạt được hai mục tiêu: (1) điện ảnh trở thành một ngành kinh doanh mũi nhọn, (2) ngành có được những tác phẩm/thành tựu văn hoá - sáng tạo đạt tầm vóc toàn cầu.
Để làm được điều đó, chính sách cho ngành công nghiệp điện ảnh cần đảo ngược mô hình phát triển theo kiểu ‘kim tự tháp’ ngược hiện nay. Đó là thay vìưu tiên và đầu tư cho lĩnh vực phim nghệ thuật, chính sách đầu tư và quản lý cần hướng tới ưu tiên phát triển thị trường công nghiệp và dịch vụ điện ảnh.
‘Chân đế’ ở đây là hệ sinh thái dịch vụ với các doanh nghiệp làm sáng tạo nội dung, dịch vụ quay phim, âm thanh, ánh sáng và dịch vụ hậu kỳ khác.
Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong hệ sinh thái nội dung số (VOD - video on demand) nhờ vào bối cảnh kỹ thuật số bùng nổ. Khi có ‘chân đế’ vững, nền điện ảnh sẽ được hưởng lợi và các tác phẩm nghệ thuật có giá trị cao sẽ đến như làm một kết quả của thị trường điện ảnh phát triển vững mạnh.
Riêng trong hoạt động quản lý nhà nước với điện ảnh cũng như với VOD, nhà lập pháp cần xây dựng các chính sách pháp luật mang tính thúc đẩy dịch vụ điện ảnh.
Cụ thể, dự thảo Luật điện ảnh (sửa đổi) cần làm được hai việc : thứ nhất ‘cởi trói’ cho doanh nghiệp thông qua (i) gỡ bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết, và (ii) tạo cơ chế kiểm soát nội dung thuận lợi thông qua ưu tiên xây dựng cơ chế hậu kiểm với quy định cho phép tự phân loại phim dưới hình thức dịch vụ phân loại phim.
Theo ông Nguyễn Quang Đồng, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Chính sách và Phát triển Truyền thông, tiền kiểm thường chỉ áp dụng với mục đích hạn chế rủi ro tiềm năng trong những trường hợp mối nguy hại rất lớn và hiện hữu.
Trong khi đó, cơ chế hậu kiểm vừa đủ đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, bảo đảm phim được phát hành tuân thủ theo các tiêu chí đánh giá của cơ quan chức năng, vừa phù hợp với thực trạng hoạt động của các doanh nghiệp trong ngành điện ảnh, đặc biệt là các dịch vụ VOD. Vì vậy, dự thảo Luật Điện ảnh (sửa đổi) đang đưa ra giải pháp rất phù hợp, đó là quy định theo hướng hậu kiểm, kèm theo theo tiêu chí phân loại và danh sách các hành vi bị cấm để xử lý khi phát hiện sai phạm.
Ông Đồng đề xuất coi phân loại phim là một dịch vụ; nên cho phép hiệp hội nghề nghiệp trong lĩnh vực điện ảnh tham gia cung cấp dịch vụ phân loại nội dung phim và Hội đồng trung ương về thẩm định và phân loại phim sẽ đóng vai trò “cầm cân nảy mực” khi có các tranh chấp, khiếu nại về phân loại phim. Ông Đồng cũng đề xuất bổ sung quy định phải có công cụ trực tuyến thân thiện để người dùng có thể báo cáo vi phạm một cách thuận lợi (như kinh nghiệm của Singapore).
Ông Đồng nhận định công nghiệp điện ảnh đang phát triển theo mô hình ‘kim tự tháp ngược’, Nhà nước đang chú trọng vào phim điện ảnh nghệ thuật trong khi thiếu chính sách tạo thuận lợi và thúc đẩy cho phần ‘nền móng’ - đó là hệ sinh thái dịch vụ phim nói riêng; hệ sinh thái ngành công nghiệp sáng tạo nội dung nói chung.
"Kỷ nguyên kỷ thuật số mang tới cơ hội thứ 2 quý báu cho ngành công nghiệp sáng tạo, bao gồm điện ảnh. Dù Luật Điện ảnh (sửa đổi) không thể đưa vào hết các chính sách phát triển ngành; nhưng có thể tạo cú hích lớn thông qua những quy định thuận lợi và thông thoáng hơn cho doanh nghiệp và người làm sáng tạo nội dung" - ông Đồng nhấn mạnh.
Phạm Lê