- Theo một nghiên cứu về bảo mật vừa được Cisco công bố, doanh nghiệp Việt Nam xếp hạng cao nhất trong nhóm chịu ảnh hưởng về tài chính tại Đông Nam Á, với tổn thất từ 10 triệu đô la Mỹ trở lên. Các cuộc tấn công mạng cũng khiến hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam bị ngưng trệ lâu nhất trong khu vực…
Nghiên cứu so sánh khả năng bảo mật châu Á Thái Bình Dương được Cisco thực hiện năm 2018 tại 11 quốc gia với hơn 2.000 người trả lời. Đây là các nhân sự phụ trách điều hành vấn đề an ninh, bảo mật của doanh nghiệp. Tại Việt Nam, đã có 150 doanh nghiệp tham gia vào cuộc khảo sát này. Kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam nằm trong nhóm chịu ảnh hưởng nhiều nhất từ các cuộc tấn công mạng trong khu vực Đông Nam Á.
Trong số các doanh nghiệp được khảo sát, 33% trả lời rằng mỗi cuộc tấn công mạng gây tổn thất đến hơn 10 triệu đô la Mỹ. Thiệt hại này không chỉ là tài sản mà còn là những giá trị vô hình mà doanh nghiệp bị mất khi bị tấn công mạng như mất lòng tin của khách hàng, mất cơ hội phát triển, tăng doanh thu… Con số này vượt trên mức trung bình của khu vực châu Á - Thái Bình Dương (cao hơn 5%), cũng như toàn cầu (cao hơn 3%). Trong số các quốc gia Đông Nam Á, mức ảnh hưởng trên 10 triệu đô la Mỹ chỉ xảy ra với 2% các doanh nghiệp tại Singapore, 4% tại Indonesia, 5% tại Thái Lan, Philipines và 11% tại Malaysia.
Nghiên cứu cũng cho thấy, hoạt động của doanh nghiệp Việt Nam bị ngưng trệ lâu khi các cuộc tấn công mạng xảy ra; với 14% doanh nghiệp tham gia khảo sát cho biết, hệ thống của họ bị ngừng hoạt động từ 1 - 5 ngày trong các cuộc tấn công. Con số này là cao nhất khu vực Đông Nam Á. Trong thực tế, hệ thống doanh nghiệp bị ngưng trệ càng lâu, tổn hại tài chính lên doanh nghiệp đó sẽ càng lớn.
Một nghiên cứu khác được thực hiện bởi công ty tư vấn quản trị A.T. Kearney vào năm 2018 đã ước tính rằng, chỉ riêng việc phát hiện cuộc tấn công chậm hơn 1 tuần đã khiến tổn thất tăng gấp 3 lần, lên tới 1.204.000 đô la Mỹ so với chi phí xử lý khoảng 433.000 đô la Mỹ khi phát hiện ngay lúc đó.
"Chuyển đổi số ở Việt Nam không còn là tầm nhìn nữa, mà đã trở thành thực tại. Các doanh nghiệp khắp cả nước đang ngày một tiếp thu và tận dụng sức mạnh của công nghệ để giải quyết các vấn đề then chốt, cũng như sử dụng chúng như động lực tăng trưởng. Tuy nhiên, song hành với đó cũng là nguy cơ bị tấn công mạng gia tăng, cả từ phía người tiêu dùng lẫn các nhà sản xuất, khi tham gia vào môi trường trực tuyến. Các nỗ lực xử lý mối nguy hại này sẽ đóng vai trò quan trọng trong quá trình gặt hái lợi ích từ làn sóng số hoá”, bà Lương Thị Lệ Thuỷ, Tổng Giám đốc Cisco Việt Nam cho biết.
Nghiên cứu cũng nhấn mạnh, 50% các doanh nghiệp Việt Nam nhận được hơn 5000 cảnh báo mỗi ngày. Tuy nhiên, chỉ 52% số cảnh báo đó được điều tra. Về vấn đề này, doanh nghiệp Việt Nam đang đi sau các nền kinh tế khác như Singapore về khả năng khắc phục các mối nguy đáng tin cậy, với chỉ 44% các mối nguy tin cậy được khắc phục.
Cho dù đã phân bổ thêm ngân sách, 84% doanh nghiệp Việt Nam tham gia khảo sát khẳng định rằng, họ sử dụng một phần tư ngân sách cho việc phát hiện các đợt tấn công. Tương tự, 85% trả lời rằng, một nửa ngân sách của họ dành cho việc phản ứng lại các mối nguy. Đây là mức chi trả ngân sách cao nhất trong khu vực. Điều này cho thấy rằng, trong toàn khu vực, các doanh nghiệp Việt Nam phải xử lý nhiều phần việc về các vụ tấn công mạng hơn, từ số lượng lớn các đợt tấn công được cảnh báo đến ảnh hưởng của chúng.
Cùng lúc đó, các cuộc tấn công trên mạng ngày càng phức tạp hơn, khiến cho thách thức mà các doanh nghiệp đang phải đương đầu trở nên khó khăn hơn. Các kẻ tấn công không còn chỉ nhắm tới hạ tầng IT mà còn nhắm tới các hoạt động công nghệ vận hành (Operational Technologies - OT), ảnh hưởng tới các chức năng vận hành doanh nghiệp hàng ngày. Ở Việt Nam, 28% các doanh nghiệp tham gia đánh giá trả lời rằng họ đã chứng kiến các cuộc tấn công vào hoạt động này, và 56% dự đoán động thái này sẽ còn gia tăng.
Việc sử dụng nhiều nhà cung ứng cũng làm cho hoạt động bảo mật trở nên phức tạp hơn. Tại Việt Nam, 44% các doanh nghiệp có nhiều hơn 10 nhà cung ứng, và 22% có hơn 20 nhà cung ứng. Điều này làm gia tăng rủi ro, bởi càng nhiều sản phẩm bảo mật càng mất nhiều thời gian để truy tìm các cuộc tấn công. Số liệu nghiên cứu cho thấy, các doanh nghiệp đã và đang gặp phải vấn đề này, với 87% trả lời rằng họ gặp khó khăn trong việc xử lý các cảnh báo đến từ nhiều nhà cung ứng cùng một lúc.
Nghiên cứu cũng đưa ra một chuỗi những lời khuyên cho doanh nghiệp với các hành động cụ thể để tăng khả năng nhận diện, giảm sự tiếp xúc với các mối nguy và tăng cường bảo mật, bao gồm:
Thứ nhất, đưa vào sử dụng những công cụ theo dõi và xử lý quy trình cuối thế hệ mới
Thứ hai, truy cập dữ liệu và thông tin dự báo các mối đe dọa kịp thời, chính xác và cho phép kết hợp dữ liệu giám sát an ninh và sự kiện
Thứ ba, triển khai các hàng rào bảo mật lớp đầu mà có thể dễ dàng tăng quy mô, như là bảo mật nền tảng đám mây.
Thứ tư, phân loại các mạng kết nối để giảm sự tiếp xúc với các mối nguy hại
Và cuối cùng, doanh nghiệp cần thiết lập và thực hành quy trình xử lý hoạt động bảo mật thường xuyên.
Hiền Mai