10 bất ngờ của Việt Nam

21:53, 24/02/2012
|

(VnMedia) - Đó là tựa đề bài viết đăng trên tờ tạp chí Foreign Policy số ra ngày 23/2/2012 trong đó bài báo liệt kê “10 điều bạn chưa biết về sự nổi lên của Việt Nam”. Xin trân trọng giới thiệu bài viết này:

Rõ ràng nhiều thứ đã thay đổi tại Đông Nam Á kể từ sau Chiến tranh Việt Nam. Trong 25 năm qua, Việt Nam đã chuyển mình. Năm 2007, Việt Nam trở thành thành viên đầy đủ của cộng đồng kinh tế toàn cầu bằng việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới. Đất nước này cũng trở thành nam châm thu hút đầu tư nước ngoài và phát triển nhanh chóng từ một nền kinh tế nông nghiệp thành một nước tập trung vào ngành chế tạo và dịch vụ giá trị cao. Nhưng nếu Việt Nam muốn duy trì sự tăng trưởng ngoạn mục của mình, nước này sẽ cần phải tăng cường năng suất lao động trong các ngành công nghiệp và dịch vụ trong những năm tới.
 
Sau đây là 10 điều trích từ báo cáo “Duy trì sự tăng trưởng của Việt Nam: Thách thức về năng suất” của Viện McKinsey Toàn cầu (McKinsey Global Institute) có thể khiến bạn ngạc nhiên:
 
1. Việt Nam tăng trưởng nhanh hơn bất kỳ nền kinh tế châu Á nào, trừ Trung Quốc
 
Việt Nam, một nước từng bị chiến tranh tàn phá, đã trở thành một trong những câu chuyện thành công về kinh tế của châu Á trong một phần tư thế kỷ qua. Kể từ khi Đảng Cộng sản đưa ra chính sách Đổi mới vào năm 1986, đất nước này đã giảm các rào cản thương mại và dòng chảy tiền vốn, mở cửa nền kinh tế cho các doanh nghiệp tư nhân. Trong suốt thời kỳ này, nền kinh tế đã tăng truởng nhanh hơn bất kỳ nền kinh tế nào tại châu Á, trừ Trung Quốc, với mức tăng GDP hàng năm tính theo đầu người là 5,3%. Mức tăng trưởng này đã tiếp tục được duy trì trong bối cảnh cuộc khủng hoảng tài chính châu Á những năm 1990 và sự đi xuống của nền kinh tế toàn cầu thời gian gần đây (nền kinh tế nước này tăng 7%/năm từ năm 2005-2010), một kỷ lục mạnh hơn bất kỳ nền kinh tế nào ở châu Á.
 
2. Việt Nam đang ra khỏi các cánh đồng lúa

Kinh tế việt Nam không chỉ xoay quanh nông nghiệp. Trên thực tế, đóng góp của nông nghiệp vào GDP của nước này đã giảm một nửa từ 40% xuống còn 20% chỉ trong vòng 15 năm, mức thay đổi nhanh hơn các nước châu Á khác, nhất là so với 29 năm tại Trung Quốc và 41 năm ở Ấn Độ.
 
Trong 10 năm qua, thị phần của nhân công trong ngành nông nghiệp giảm khoảng 13%, trong khi tỉ lệ công nhân công nghiệp tăng 9,6% và nhân công trong ngành ngành dịch vụ tăng 3,4%. Sự dịch chuyển nhân công từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ đã đóng góp rất lớn vào sự tăng trưởng quy mô kinh tế của Việt Nam do sự khác biệt lớn trong năng suất của các ngành này. Kết quả là, tỉ trọng nông nghiệp trong GDP giảm 6,7% trong khi tỉ lệ công nghiệp lại tăng 7,2% trong 10 năm qua.
 
3. Việt Nam là nhà xuất khẩu hàng đầu thế giới về hạt tiêu, hạt điều, gạo và cà phê

Việt Nam là nhà xuất khẩu hạt tiêu hàng đầu, với 116.000 tấn năm 2010, và đứng đầu thế giới trong xuất khẩu hạt điều. Nước này cũng là nhà xuất khẩu lúa gạo đứng thứ hai thế giới sau Thái Lan đồng thời chỉ đứng sau Brazil về xuất khẩu cà phê. Việt Nam cũng đứng thứ 5 trên thế giới về sản xuất chè và thứ 6 trong xuất khẩu hải sản như cá tra, mực, tôm và cá ngừ.

Ảnh minh họa


 4. Việt Nam không phải là “Trung Quốc + 1”
 
Tăng chi phí lao động ở Trung Quốc đã khiến các chủ công ty dịch chuyển việc sản xuất sang Việt Nam, nơi có nguồn lao động giá rẻ dồi dào. Xu hướng này đã khiến nhiều lãnh đạo các tập đoàn lớn nói về việc Việt Nam sẽ trở thành điểm lớn tiếp theo của châu Á trong việc xuất khẩu ngành chế tạo – phiên bản thu nhỏ của Trung Quốc , hay Trung Quốc + 1.
 
Nhưng Việt Nam khác Trung Quốc ở 2 khía cạnh. Thứ nhất, kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng bởi bởi chi tiêu cá nhân lớn hơn Trung Quốc. Chi tiêu của hộ gia đình chiếm đến 65% GDP của Việt Nam – tỉ lệ cao bất thường ở châu Á. Ngược lại, ở Trung Quốc, tiêu dùng chỉ chiếm 36% GDP. Thứ hai, trong khi tăng trưởng kinh tế nhanh của Trung Quốc được thúc đẩy bằng xuất khẩu ngành chế tạo và mức đầu tư vốn cực cao, nền kinh tế Việt Nam cân bằng hơn giữa ngành dịch vụ và chế tạo, với mỗi ngành chiếm xấp xỉ 40% trong GDP. Trong 5 năm qua, sản lượng ngành công nghiệp (trong đó bao gồm cả xây dựng, chế tạo, khai khoáng và dân dụng) và dịch vụ đã tăng ở mức 8%/năm.
 
5. Việt Nam là nam châm hút đầu tư nước ngoài
 
Việt Nam đang nằm trong hầu hết các danh sách thị trường mới nổi hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Thăm dò của Bộ thương mại và đầu tư của Anh và Economist Intelligence Unit (một Cơ quan nghiên cứu các chỉ số kinh tế uy tín của Tạp chí The Economist) đã xếp Việt Nam là điểm đến thị trường mới nổi hấp dẫn nhất của đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) sau nhóm bộ tứ BRIC (Brazil, Nga, Ấn Độ và Trung Quốc). Dòng chảy vốn FDI đăng ký vào Việt Nam tăng từ 3,2 tỉ USD năm 2003 lên 71,7 tỉ năm 2008 trước khi giảm trong thời kỳ suy thoái kinh tế toàn cầu xuống 21,5 tỉ USD năm 2009.
 
Và ở đây Việt Nam cũng khác hẳn Trung Quốc ở chỗ gần 60% FDI ở Trung Quốc đã được rót vào ngành chế tạo tập trung nhiều lao động, so với tỉ lệ 20% của Việt Nam. Ở Việt Nam, vốn còn lại được chuyển sang các ngành khai khoáng, khai thác đá, dầu và khí (40%) và bất động sản (15-20%), phản ánh sự tăng trưởng nhanh trong ngành du lịch Việt Nam. Con số khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam đã tăng thêm 1/3 từ năm 2005.

Ảnh minh họa


 6. Việt Nam có nhiều cơ sở hạ tầng đường sá hiện đại hơn Philippines hay Thái Lan

Việt Nam đã bắt đầu có những đầu tư quan trọng vào cơ sở hạ tầng. Nhiều du khách tới Việt Nam vẫn đánh giá tốt về hệ thống đường sá của nước này. Mật độ đường bộ đạt tới 0,78km/km2 năm 2009, cao hơn tỉ lệ tại Philippines hay Thái Lan, hai nước đang phát triển hơn Việt Nam. Cùng năm đó, mạng lưới điện đã bao phủ hơn 96% diện tích đất nước. Những cảng container mới như Dung Quất và Cái Mép và các sân bay như Đà Nẵng ở miền Trung và Cần Thơ ở vùng đồng bằng sông Cửu Long đã cải thiện việc tiếp xúc với phần còn lại của thế giới.
 
7. Thế hệ trẻ của Việt Nam đang tiếp cận nhiều hơn với internet


Dân số Việt Nam trẻ, được giáo dục tốt, và tiếp cận với internet nhiều hơn. Đăng ký điện thoại di động ở Việt Nam tăng gần 70%/năm từ năm 2000-2010 so với không đầy 10%/năm ở Mỹ trong cùng thời kỳ. Đến cuối năm 2010, Việt Nam đã có 170 triệu đăng ký điện thoại, trong đó 154 triệu người đã đăng ký di động.
 
Ở mức 31%, sự thâm nhập của internet vào Việt Nam thấp hơn so với Malaysia (55%) và Đài Loan (Trung Quốc) (72%). Nhưng điều này đang thay đổi nhanh. Đăng ký băng thông rộng ở Việt Nam tăng từ 0,5 triệu năm 2006 lên 3,8 triệu năm 2010, cùng năm đăng ký 3G đạt 7,7 triệu. Một khi cơ sở hạ tầng viễn thông được nâng cấp, sử dụng di động và Internet cũng có xu hướng bùng nổ. Hiện 94% người sử dụng Internet của VIệt Nam tiếp cận với tin tức trực tuyến. Hiện có hơn 40% người sử dụng Internet lướt web mỗi ngày.
 
8. Việt Nam đang trở thành một điểm đến hàng đầu cho dịch vụ thuê ngoài ngoại biên (outsourcing and offshore services)
 
Việt Nam đã thuê hơn 100.00 người trong ngành dịch vụ thuê ngoài ngoại biên, ngành hiện đang tạo ra doanh thu hàng năm hơn 1,5 tỉ USD. Nhiều tập đoàn đa quốc gia có tiếng đã hoạt động tại Việt Nam như Hewlett-Packard, IBM, và Panasonic. Trên thực tế, đất nước này có tiềm năng trở thành một trong 10 điểm đến hàng đầu thế giới trong lĩnh vực này, nhờ vào số lượng lớn sinh viên trẻ tốt nghiệp đại học (các trường ĐH cung cấp 257.000 nam nữ thanh niên trẻ vào lực lượng lao động mỗi năm) với mức lương tương đối thấp. Một nhà lập trình phần mềm ở Việt Nam có thể được thuê với mức lương chỉ bằng 60% so với Trung Quốc, trong khi các nhân viên xử lý dữ liệu và âm thanh mức lương chỉ bằng 50%.
 
Ngành dịch vụ thuê ngoài ngoại biên ở Việt Nam có thể tạo doanh thu hàng năm từ 6-8 tỉ USD/năm, trong đó phần lớn là có xu hướng xuất khẩu – nếu có nhu cầu và Việt Nam bảo đảm có thể đáp ứng nhu cầu đó. Ngành này có thể trở thành một động cơ tạo công ăn việc làm tại khu vực đô thị, với việc thuê thêm khoảng 600.00 – 700.000 lao động đến năm 2020 và đóng góp từ 3-5% tăng trưởng GDP của Việt Nam.

Ảnh minh họa


9. Các ngân hàng của Việt Nam đang cho vay với một tỉ lệ nhanh hơn Trung Quốc, Ấn Độ hoặc các nước ASEAN khác
 
Tổng các khoản cho vay của ngân hàng  của Việt Nam đã tăng 33%/năm trong thập kỷ qua – tỉ lệ tăng trưởng cao hơn Trung Quốc, Ấn Độ và các nước ASEAN khác. Đến cuối năm 2010, gía trị các khoản cho vay đã đạt mức 120% GDP, so với mức 22% năm 2000. Mặc dù đây có thể là bằng chứng của sự năng động mới trong nền kinh tế Việt Nam, được thúc đẩy bởi sự bùng nổ của hệ thống ngân hàng, lo ngại ở đây đó là sự gia tăng các khoản vay không hoạt động có thể gây ra sự túng quẫn kinh tế (như những nơi khác) và đẩy chính phủ phải can thiệp vào ngành tài chính để bảo vệ nhưng người cho vay, hệ thống ngân hàng và cuối cùng là người nộp thuế.
 
10. Sự phân chia nhân khẩu học 
 
Từ năm 2005-2010, sự gia tăng nhóm công nhân trẻ và sự dịch chuyển nhanh từ nông nghiệp đã tạo ra 2/3 tốc độ tăng trưởng của Việt Nam. 1/3 phần còn lại là do tăng năng suất. Nhưng nay hai yếu tố đầu tiên đang suy yếu. Các số liệu chính thức cho thấy tăng trưởng trong lực lượng lao động sẽ giảm xuống khoảng 0,6%/năm trong thập kỷ tới, so với tăng trưởng hàng năm 2,8% từ năm 2000-2010. Đồng thời sự dịch chuyển từ nông nghiệp sang công nghiệp có thể sẽ không tăng nhanh với tốc độ như chúng ta đã chứng kiến trước.
 
Do đó, rất cần những cải thiện về năng suất nếu Việt Nam vẫn muốn duy trì mức tăng trưởng mang tính lịch sử. Nói chính xác hơn, cần phải có sự tăng năng suất lao động trong ngành dịch vụ và chế tạo để tăng hơn 50% - từ mức 4,1% hàng năm lên 6,4% nếu kinh tế muốn đạt mục tiêu mà chính phủ đề ra là tăng trưởng hàng năm từ 7-8% đến năm 2020.
 
Nếu việc tăng năng suất không được hiện thực hóa, tăng trưởng của Việt Nam sẽ có thể giảm xuống chỉ còn từ 4,5%-5%/năm. Và với tốc độ đó, GDP của Việt Nam vào năm 2020 sẽ thấp hơn 30% so với hiện nay.

Việt Nam có nhiều sức mạnh bên trong – lực lượng lao động trẻ, tài nguyên thiên nhiên dồi dào và sự ổn định chính trị. Nếu nước này hành động mạnh mẽ đối phó với các nguy cơ ngắn hạn và theo đuổi một chương trình tăng trưởng tập trung vào năng suất, Việt Nam có thể bước vào làn sóng tăng trưởng và thịnh vượng lần thứ hai.



Bảo Trân - (Theo Foregin Policy)

Ý kiến bạn đọc