Khó xử lý hình sự ngoại tình trên thực tế!

06:52, 04/03/2016
|
(VnMedia) -  Theo quan điểm của Luật sư, rất khó có thể xử lý hình sự hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Bởi đây là loại tội phạm xảy ra trong quan hệ nội bộ gia đình, khó chứng minh và quan trọng là tố cáo xử lý về hình sự trong quan hệ vợ chồng vi phạm chế độ hôn nhân gia đình là rất khó.
 
Những ngày gần đây, dư luận đang xôn xao về quy định trong Bộ luật hình sự năm 2015, có hiệu lực từ 1/7/2016 có quy định về ngoại tình có thể bị phạt tù. Nhiều người lo ngại, cho rằng đó là hình sự hóa quan hệ dân sự.
 
Liên quan đến vấn đề này, trao đổi với VnMedia, luật sư Nguyễn Ánh Thơm – Trưởng Văn phòng luật sư Nguyễn Anh, Đoàn luật sư Thành phố Hà Nội cho rằng, khó để xử lý hình sự ngoại tình bởi rất nhiều lý do.
 
Điều 36 Hiến pháp 2013 qui định, “Nam, nữ có quyền kết hôn, ly hôn. Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau. Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em”.
 
Bên cạnh đó, Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình 2014: Bảo vệ chế độ hôn nhân gia đình cũng nêu về việc cấm các hành vi sau đây:
 
“Người đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người đang có chồng, có vợ”
 
Để phù hợp với các qui định của Hiến pháp 2013, Luật Hôn nhân gia đình 2014, Bộ Luật Hình sự mới có hiệu lực từ 01/7/2015 đã có những sửa đổi, bổ sung một số tội danh mới cũng như qui cụ thể hơn một số điều của Bộ Luật Hình sự 1999. Cụ thể  những ngày gần đây, dư luận đang xôn xao trước qui định về ngoại tình có thể bị phạt tù. Nhiều người lo ngại, cho rằng đó là hình sự hóa quan hệ dân sự.
 
Theo vị luật sư này, trước hết, chúng ta cần phải làm rõ “ngoại tình” không phải là một thuật ngữ về pháp luật được sử dụng trong qui định của Bộ Luật Hình sự. Không có qui định nào quy định ngoại tình sẽ bị pháp luật xử lý nếu việc ngoại tình đó có thỏa mãn các dấu hiệu vi phạm chế độ một vợ, một chồng hay không.
 
Cũng theo luật sư Nguyễn Anh Thơm, hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng không phải là qui định mới được Bộ Luật Hình sự 2015 điều chỉnh. Điều 147 Bộ Luật Hình sự năm 1999 vẫn đang có hiệu lực hiện nay đã có qui định Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng.
 
Theo quy định của điều luật này, người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm. 
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Qua thực tiễn tham gia tố tụng những năm gần đây thì việc các cơ quan pháp luật xử lý loại Tội phạm này là rất ít khi xảy ra. Chính vì hiếm khi xử lý nên một bộ phận người dân không biết đến qui định này đã được Bộ Luật Hình sự điều chỉnh. Về cơ bản điều 182 Bộ Luật Hình sự mới này không có gì khác so với Điều 147 Bộ Luật Hình sự 1999 (chỉ là cụ thể hóa tình tiết gây hậu quả nghiêm trọng được qui định theo Điểm 3.1 khoản 3, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC hướng dẫn về quy định vi phạm chế độ một vợ một chồng).

Theo luật sư Nguyễn Anh Thơm, về mặt khách quan, để thoả mãn cấu thành tội phạm cơ bản của Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng, hai dấu hiệu cần và đủ theo điều 147 BLHS và điều 182 BLHS mới 2015 phải là:
 
Hành vi chung sống như vợ chồng
 
Điểm 3.1 khoản 3, Thông tư liên tịch số 01/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC- VKSNDTC hướng dẫn về quy định vi phạm chế độ một vợ một chồng. Theo đó:
 
Chung sống như vợ chồng là việc người đang có vợ, có chồng chung sống với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà lại chung sống với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ một cách công khai hoặc không công khai nhưng cùng sinh hoạt chung như một gia đình.
 
Việc chung sống như vợ chồng thường được chứng minh bằng việc có con chung, được hàng xóm và xã hội xung quanh coi như vợ chồng, có tài sản chung đã được gia đình cơ quan, đoàn thể giáo dục mà vẫn tiếp tục duy trì quan hệ đó…
 
Phải có hậu quả xảy ra hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
 
Theo luật sư Nguyễn Anh Thơm, chỉ có thể truy cứu trách nhiệm hình sự về tội này khi thuộc một trong các trường hợp sau đây:

– Hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng gây hậu quả nghiêm trọng. Hậu quả nghiêm trọng có thể là làm cho gia đình của một hoặc cả hai bên tan vỡ dẫn đến ly hôn, vợ hoặc chồng, con vì thế mà tự sát, v.v…

– Người vi phạm chế độ một vợ, một chồng đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
 
+ Đã bị xử phạt hành chính theo Điều 48, Nghị định 110/2013/NĐ-CP có quy định
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
 
– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác, chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
 
– Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng với người khác;
 
– Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ.
 
Chính vì thế, luật sư Nguyễn Anh Thơm nhấn mạnh, rất khó có thể xử lý hình sự hành vi vi phạm chế độ một vợ, một chồng. Bởi những khó khăn như sau:
 
Thứ nhất, đây là loại tội phạm xảy ra trong quan hệ nội bộ gia đình có liên quan đến mối quan hệ giữa vợ chồng, con cái, bố mẹ… Thực tế ngay để xử phạt hành chính hành vi vi phạm chế độ hôn nhân gia đình theo Nghị định 110/2013/NĐ-CP là đã rất khó. Ngoại tình mà không vi phạm hôn nhân chế độ một vợ một chồng theo quy định nêu trên thì không bi coi là vi phạm pháp luật. Việc có quan hệ tình cảm với người khác mà không chung sống như vợ chồng với người đó, không có con chung, không tổ chức lễ cưới… thì không thể xem xét đây là hành vi vi phạm pháp luật.
 
Thứ hai, để chứng minh vì lý do một bên chung sống như vợ như chồng với người khác dẫn tới ly hôn, tự sát... phải chứng minh có mối quan hệ nhân quả. Ly hôn vì lý do một bên chung sống như vợ như chồng với người khác hay là lý do trong suốt quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, đời sống trầm trọng, tình cảm không còn,.. Nếu tự sát phải có chứng cứ như: thư tuyệt mệnh vì lý một bên sống như vợ như vợ như chồng với người khác dẫn đến phải tự sát; Chứng cứ chứng minh con cái tự sát là do bố mẹ gây ra,…
 
Thứ ba, việc tố cáo xử lý về hình sự trong quan hệ vợ chồng vi phạm chế độ hôn nhân gia đình là rất khó. Bởi lẽ các bên còn ràng buộc trong quan hệ con cái và gia đình. Về nguyên tắc nếu không còn tình cảm thì có thể xin ly hôn tại Tòa án. Tố cáo xử lý hình sự sẽ làm trầm trọng hơn quan hệ vợ chồng, con cái và gia đình.  
 
Bên cạnh đó, rất khó có thể thu thập chứng cứ chứng minh “chung sống như vợ như chồng” trên thực tế theo qui định của pháp luật. Mặt khác, người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình “biết rõ” là đang có chồng, có vợ … “Biết rõ” ở đây phải được chứng minh như có nhìn thấy Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn, đi lại với quen thân với con cái, họ hàng,.. và quan trọng nhất phải thừa nhận biết rõ tình trạng hôn nhân của người đó.
 
"Tuy là khó xử lý loại Tội phạm này trên thực tế nhưng chúng ta vẫn phải qui định trong Bộ luật hình sự để nhằm mục đích răn đe, phòng chống các vi phạm trong lĩnh vực hôn nhân gia đình", luật sư Nguyễn Anh Thơm nói.
 
Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng
 
1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:
 
a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;
 
b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.
 
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
 
a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;
 
b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Ý kiến bạn đọc