Vì sao Việt Nam nghèo, năng suất lao động thấp?

08:12, 31/10/2014
|

(VnMedia) - Theo Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân, tình trạng khoảng 88% doanh nghiệp Việt Nam có trình độ công nghệ thấp và trung bình thấp là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng năng suất lao động và thu nhập đầu người của Việt Nam còn thấp....

>>"Tình hình nợ công đang rất khó khăn"

Xung quanh việc Tổ chức Lao động quốc tế xếp năng suất lao động của Việt nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chiều 30/10, tại phiên thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế - xã hội năm 2014 và nhiệm vụ năm 2015 tại kỳ họp Quốc hội, Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân đã phát biểu nêu rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này.

Theo Chủ tịch Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (UBTWMTTQ) Nguyễn Thiện Nhân do không được thông tin đầy đủ về cách tính năng suất lao động (NSLĐ) của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) nên một số ý kiến nhận định rằng trình độ nghề nghiệp của người lao động Việt Nam thấp là nguyên nhân chính của tình trạng trên. Nhận định như vậy chưa phản ánh đúng bản chất kinh tế của khái niệm NSLĐ và thực tiễn Việt Nam vì NSLĐ là kết quả phát triển lâu dài của một đất nước và do một hệ thống nhiều yếu tố chi phối chứ không phải chỉ do trình độ nghề nghiệp của người lao động.

Theo Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam, ILO tính năng suất lao động theo công thức: NSLĐ  =  GDP/Tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế = Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người làm việc =  GDP/Dân số x Tỷ lệ người làm việc trong tổng dân số.

Như vậy, khi tỷ lệ người làm việc trong dân số giữa các nước là xấp xỉ như nhau thì so sánh NSLĐ giữa các nước cũng tương đương như so sánh Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người của các nước.

Ông cho biết, theo phân loại của Ngân hàng Thế giới, một quốc gia có Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người dưới 1.000 USD/năm thì quốc gia đó được xếp là nước nghèo. Việt Nam mới thoát nghèo vào năm 2008.

Khi đó, GDP/người của Singapore là 39.700 USD, gấp hơn 34 lần Việt Nam; của Nhật Bản là 37.800 USD, gấp 33 lần Việt Nam; của Hàn Quốc là 20.500 USD, gấp 18 lần Việt Nam; của Malaysia là 8.400 USD, gấp 7 lần Việt Nam và của Thái Lan là 4.100 USD, gấp 3,6 lần Việt Nam. Tức là câu hỏi: “Vì sao NSLĐ của Việt Nam thấp?” hoàn toàn tương tự như câu hỏi: “Vì sao Việt Nam nghèo?”.

 Ảnh minh họa

 Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam Nguyễn Thiện Nhân. Ảnh: Internet

Nguyên nhân nào khiến nước ta còn nghèo?

Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam cho rằng, có thể thấy nước ta còn nghèo so với các nước khác là do nhiều nguyên nhân: Xuất phát điểm của Việt Nam và các nước là rất khác nhau về trình độ phát triển như hạ tầng cơ sở, nguồn nhân lực, thiết bị, công nghệ, cơ cấu nền kinh tế, trình độ KHCN, mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật.

Tại thời điểm năm 1975 khoảng cách về thu nhập theo đầu người hay NSLĐ giữa các nước và Việt Nam là rất lớn. Năm 1975, theo số liệu của Liên hợp quốc, GDP theo đầu người của nước ta mới chỉ đạt 79 USD, trong khi đó Malaysia là 819 USD (gấp 10 lần VN), Thái Lan là 366 USD (gấp 4,6 lần VN), Singapore là 2.558 USD (gấp 32 lần VN), Hàn Quốc là 624 USD (gấp 8 lần VN), còn Nhật Bản là 4.629 USD (gấp 58 lần VN).

Tuy nhiên đến năm 2013, khoảng cách về thu nhập theo đầu người hay NSLĐ giữa các nước trên và Việt Nam đã thu hẹp đáng kể: Malaysia chỉ còn gấp 5,5 lần Việt Nam (năm 1975 gấp 10 lần), Thái Lan gấp 3 lần (năm 1975 gấp 4,6 lần), Singapore gấp 29 lần (năm 1975 gấp 32 lần), và Nhật Bản gấp 20 lần (năm 1975 gấp 58 lần).

Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam cho rằng, để sản xuất không chỉ cần lao động mà phải có thiết bị công nghệ. Xu hướng phát triển của nhân loại là: từ sản xuất thủ công (chi phí công cụ sản xuất thấp) chuyển sang sản xuất cơ khí hóa (chi phí thiết bị công nghệ cao hơn nhiều) và tiến lên sản xuất tự động hóa (chi phí cho thiết bị máy móc còn tăng cao hơn nữa, sử dụng ít lao động hơn nữa).

Như vậy, quá trình tăng NSLĐ của loài người luôn đi đôi với điều kiện tăng mức trang bị thiết bị, công nghệ cho người lao động. Do đó, phải có vốn đầu tư, tăng vốn đầu tư để cơ khí hóa, tự động hóa, tin học hóa sản xuất.

Theo ông, một nước nghèo thì khả năng tự tiết kiệm để đầu tư là hạn chế, vì vậy phải có một quá trình tích lũy vốn và đầu tư hàng chục năm mới thực hiện được cơ khí hóa, cơ giới hóa, tự động hóa, tin học hóa nền kinh tế.

Từ 2000 đến 2013, mặc dù khoảng cách về vốn đầu tư toàn xã hội/người lao động của các nước so với Việt Nam đã được thu hẹp đáng kể nhưng mức độ chênh lệch vẫn còn lớn: Nhật Bản từ gấp Việt Nam 76 lần năm 2000 giảm xuống còn 20 lần vào năm 2013; Singapore từ gấp 66 lần giảm xuống còn 22 lần; Hàn Quốc từ gấp hơn 34 lần giảm còn 21 lần; Malaysia từ gấp gần 11 lần giảm còn 6,5 lần; Thái Lan từ gấp 3,5 lần giảm còn gần 3 lần.

Khả năng tự tích lũy để tái đầu tư thấp dẫn đến tình trạng các doanh nghiệp Việt Nam chưa tham gia đầy đủ vào tất cả các khâu của chuỗi sản xuất hàng hóa, do đó giá trị gia tăng tạo ra chưa cao.

Thêm vào đó, theo kết quả tổng điều tra doanh nghiệp trong giai đoạn 2000-2011, mặc dù có xu hướng giảm dần nhưng tỷ lệ các doanh nghiệp sử dụng công nghệ thấp vẫn chiếm bình quân gần 60% tổng số doanh nghiệp tham gia điều tra. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ trung bình thấp chiếm gần 29%. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ trung bình cao chiếm tỷ lệ khoảng 10%. Các doanh nghiệp sử dụng công nghệ cao chỉ chiếm khoảng 2%.

Tình trạng khoảng 88% doanh nghiệp Việt Nam có trình độ công nghệ thấp và trung bình thấp là một nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng NSLĐ và thu nhập đầu người của Việt Nam còn thấp. Để khắc phục tình trạng này phải tăng đầu tư để bổ sung và hiện đại hóa thiết bị công nghệ ở hầu hết các doanh nghiệp trong nền kinh tế.

Nền kinh tế nước ta vẫn sử dụng nhiều lao động trong nông nghiệp và trình độ lao động nói chung vẫn còn thấp: Mặc dù cơ cấu kinh tế Việt Nam hiện nay đang từng bước chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, nhưng lao động nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Năm 2014, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chỉ đóng góp khoảng 18% GDP nhưng chiếm đến 47% tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế.

Ở các nước trong khu vực, tỷ lệ lao động nông nghiệp thấp hơn nhiều: Thái Lan - 39%, Trung Quốc - 34%, Malaysia - 11%, Hàn Quốc - 6,5%, còn Singapore chỉ có khoảng 1% lao động làm việc trong khu vực nông nghiệp.

Tỷ lệ lao động qua đào tạo của Việt Nam mặc dù tăng dần qua các năm nhưng vẫn còn ở mức thấp: năm 2000 - 16%, năm 2005 - 26,2%, năm 2010 - 40%, năm 2013 ước đạt 49%. Trong khi đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo của Singapore năm 2013 là 61,5%, Hàn Quốc là 62%.

Một nguyên nhân khác, khoa học chậm phát triển, đầu tư cho khoa học - công nghệ (KHCN) còn thấp cũng là nguyên nhân dẫn đến NSLĐ thấp. Từ năm 2001 đến năm 2011 tỷ lệ đầu tư cho KHCN/GDP của nước ta nhìn chung xoay quanh mức 0,5% và trong 11 năm tỷ lệ đầu tư này chỉ tăng từ 0,48% lên 0,51%.

Trong khi đó, một số nước trong khu vực gia tăng đầu tư mạnh cho KHCN: Malaysia tăng từ 0,47% lên 1,07% GDP, Trung Quốc tăng từ 0,95% lên 1,84% GDP, Hàn Quốc tăng từ 2,47% lên 4,04% GDP, Thái Lan tăng từ 0,26% lên 0,37% GDP và đang hướng đến mục tiêu đạt 1% GDP vào năm 2016.

Theo Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam, ngoài 5 yếu tố chính nói trên, còn nhiều yếu tố khác liên quan đến câu hỏi: Vì sao một quốc gia lại nghèo, NSLĐ thấp, như: Sản xuất công nghiệp theo phương thức gia công là chủ yếu; Sản xuất nông nghiệp vẫn chủ yếu là bán nguyên liệu và xuất khẩu thô, chưa có các sản phẩm cuối cùng có thương hiệu quốc tế; Tiến độ cổ phần hóa và tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước còn chậm; Chính sách kinh tế vĩ mô còn bất hợp lý…

“Một nước Việt Nam còn nghèo với thu nhập đầu người thấp, NSLĐ thấp (thu nhập do 1 lao động tạo ra thấp) là vấn đề đã đặt ra với nước ta từ năm 1975. Sau gần 40 năm, NSLĐ đã tăng đáng kể, nước ta đã thoát ngèo trở thành nước có thu nhập trung bình thấp trên thế giới. Tuy nhiên, chúng ta không thể bằng lòng với mức thu nhập đầu người (GDP/người dân) ở mức hơn 2.000 USD năm 2014 hay dự báo 3.500 - 4.000 USD vào năm 2020. Thay đổi mô hình tư duy và mô hình phát triển kinh tế là giải pháp gốc cho tăng NSLĐ, tăng thu nhập cho mỗi người lao động và đất nước Việt Nam của chúng ta!”, Chủ tịch UBTWMTTQ Việt Nam nhấn mạnh.


Xuân Tùng

Ý kiến bạn đọc