Không giảm án tử hình với tội tham ô tài sản và nhận hối lộ.

15:10, 22/03/2015
|

(VnMedia)- Trong dự án Luật Hình sự (sửa đổi) đang được nghiên cứu lấy ý kiến, về hình phạt tử hình, có ý kiến đề xuất chỉ giảm 8/22 tội không còn hình phạt tử hình. Trong đó đáng lưu ý việc đề xuất không giảm án tử hình đối với tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ.

Ảnh minh họa

Phòng tử hình bằng hình thức tiêm thuốc độc.

Thực trạng áp dụng hình phạt tử hình

Hình phạt tử hình được quy định tại 29/195 tội danh của Bộ luật hình sự (BLHS) năm 1985, chiếm tỷ lệ (14,85%). Tuy nhiên, qua 04 lần sửa đổi, bổ sung BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992, 1997) thì số lượng các tội danh có quy định hình phạt tử hình tăng từ 29 tội danh lên 44 tội danh, chiếm khoảng 20,64% (44/218 tội danh).

Đến BLHS năm 1999, hình phạt tử hình được quy định tại 29/263 tội danh, trong đó nhóm các tội xâm phạm an ninh quốc gia có số lượng tội danh quy định hình phạt tử hình cao nhất (07 tội danh); các tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công cộng và các tội xâm phạm sở hữu, mỗi nhóm có 02 tội. Còn lại 07 nhóm tội khác thì hình phạt tử hình phân bố đều cho các nhóm, mỗi nhóm có 03 tội danh có quy định hình phạt tử hình.

Như vậy, so với BLHS năm 1985 (qua 04 lần sửa đổi, bổ sung) thì số lượng các tội danh có quy định hình phạt tử hình trong BLHS năm 1999 đã giảm xuống đáng kể, chỉ còn 29 tội danh, ngang với số lượng tội danh có quy định của BLHS năm 1985. Tuy nhiên, nếu tính tỷ lệ trên tổng số các tội danh được quy định tại Phần các tội phạm của BLHS lại chiếm tỷ lệ thấp hơn so với BLHS năm 1985 (chiếm tỷ lệ trên 11% so với 14,87% của BLHS).

Sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2009, BLHS hiện hành chỉ còn 22/272 tội danh thuộc 09 nhóm tội có quy định hình phạt tử hình. Trong đó, nhiều nhất là nhóm tội xâm phạm an ninh quốc gia (07 tội danh), tiếp đến là nhóm tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh (03 tội danh). Ít nhất là nhóm tội xâm phạm sở hữu và nhóm tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế (mỗi nhóm có 01 tội danh). Còn lại năm nhóm tội khác, mỗi nhóm có 02 tội danh.

Về điều kiện áp dụng hình phạt tử hình, so với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 cũng đã quy định theo hướng hạn chế điều kiện áp dụng. Cụ thể, Điều 35 BLHS năm 1999 đã xác định rõ giới hạn áp dụng hình phạt tử hình chỉ áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng; mở rộng phạm vi đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình theo hướng hình phạt này không áp dụng đối với cả phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử (theo quy định của BLHS 1985 thì hình phạt tử hình không áp dụng đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi) và loại bỏ quy định của BLHS 1985 về khả năng thi hành án tử hình ngay sau khi xét xử.

Như vậy, xét theo từng lần sửa đổi, bổ sung BLSH cụ thể thì có thể thấy, số lượng các tội danh có quy định hình phạt tử hình lúc giảm, lúc tăng, nhưng nhìn một cách tổng quát có thể thấy rằng, số tội danh có quy định hình phạt tử hình trong các lần sửa đổi, bổ sung BLHS có xu hướng giảm dần theo thời gian. Điều này không chỉ thể hiện ở việc giảm dần tỷ lệ các tội danh có quy định hình phạt tử hình mà còn thể hiện ở việc quy định điều kiện chặt chẽ khi áp dụng hình phạt này để giảm việc áp dụng trên thực tế. Tuy nhiên, với quan điểm nhân đạo trong chính sách xử lý người phạm tội của Nhà nước ta hiện nay cùng với xu hướng văn minh của thế giới thì việc nghiên cứu tiếp tục giảm quy định áp dụng hình phạt tử hình và hạn chế khả năng áp dụng hình phạt tử hình là cần thiết.

Nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới, tính đến ngày 30/6/2014 có 162 quốc gia và vùng lãnh thổ bãi bỏ hình phạt tử hình trên luật hoặc trên thực tế, trong đó có 100 nước bãi bỏ hoàn toàn; 55 nước có quy định hình phạt tử hình nhưng không áp dụng trên thực tế; 07 nước bãi bỏ án tử hình đối với tội thông thường và duy trì án tử hình đối với tội ngoại lệ như một số tội theo luật quân sự trong những hoàn cảnh đặc biệt; 37 nước và lãnh thổ vẫn duy trì hình phạt tử hình đối với tội phạm thông thường. Trong 10 nước ASEAN có 02 nước bãi bỏ hoàn toàn; 03 nước còn duy trì hình phạt tử hình nhưng không áp dụng .

Những đề xuất đáng lưu ý

Theo đánh giá của Bộ Tư pháp, việc nghiên cứu đề đề xuất hoàn thiện quy định của BLHS về hình phạt tử hình theo hướng tiếp tục hạn chế việc quy định hình phạt tử hình trong BLHS cũng như hạn chế khả năng áp dụng và thi hành hình phạt tử hình trên thực tế nhằm đáp ứng các mục tiêu sau đây: Đáp ứng với yêu cầu của cải cách tư pháp; Tăng cường bảo vệ quyền con người và quyền công dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; Đáp ứng yêu cầu của quá trình hội nhập quốc tế và các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên.

Trên cơ sở đó, đã có một số phương án lựa chọn được đưa ra.

- Phương án 1A: Giữ nguyên như quy định hiện hành. Cụ thể là giữ nguyên số tội danh quy định hình phạt tử hình của BLHS là 29/272 tội danh và giữ nguyên các điều kiện áp dụng quy định tại Điều 35 của BLHS.

- Phương án 1B: Nghiên cứu đề xuất giảm hình phạt tử hình và hạn chế khả năng áp dụng hình phạt này theo hướng đề xuất loại bỏ hình phạt tử hình đối với 10 tội trong số 22 tội danh có quy định hình phạt tử hình và sửa đổi, bổ sung Điều 35 của BLHS.

Theo đề xuất này, thì hình phạt tử hình sẽ được loại bỏ ở những điều sau: Tội cướp tài sản (Điều 133); Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh (Điều 157); Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia (Điều 231); Tội tham ô tài sản (Điều 278); Tội nhận hối lộ (Điều 279); Tội chống mệnh lệnh (Điều 316); Tội đầu hàng địch (Điều 322); Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược (Điều 341); Tội chống loài người (Điều 342); Tội phạm chiến tranh (Điều 343). Đồng thời, Điều 35 của BLHS được sửa đổi, bổ sung theo hướng quy định rõ ràng, cụ thể và chặt chẽ các điều kiện áp dụng hình phạt tử hình theo hướng hạn chế các trường hợp áp dụng hình phạt này cả về loại tội, loại vụ việc và đối tượng; mở rộng đối tượng không áp dụng hình phạt tử hình và quy định về hoãn thi hành án tử hình và chuyển hình phạt tử hình thành tù chung thân.

- Phương án 1C: Nghiên cứu đề xuất giảm hình phạt tử hình và hạn chế khả năng áp dụng hình phạt này theo hướng đề xuất loại bỏ hình phạt tử hình đối với 08 tội trong số 22 tội danh có quy định hình phạt tử hình; sửa đổi, bổ sung Điều 35 của BLHS và điều chỉnh vể mặt kỹ thuật lập pháp trong việc quy định hình phạt tử hình đối với từng tội danh cụ thể nhằm hạn chế áp dụng hình phạt tử hình.

Đánh giá từ Bộ Tư pháp cho thấy, theo phương án này, về cơ bản tương tự như đề xuất của Phương án 1B. Tuy nhiên, số lượng các tội danh đề xuất loại bỏ hình phạt tử hình giảm chỉ có 08 tội, trong đó không đề xuất loại bỏ tử hình đối với hai tội: Tội tham ô tài sản và tội nhận hối lộ. Đồng thời, bổ sung thêm phương án điều chỉnh về mặt kỹ thuật lập pháp trong việc quy định hình phạt tử hình đối với từng tội danh cụ thể nhằm hạn chế áp dụng hình phạt tử hình. Cụ thể, xuất phát từ thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm cho thấy hình phạt tử hình chủ yếu được áp dụng đối với tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy (Điều 194 BLHS). Do vậy, Điều 194 BLHS sẽ được sửa về mặt kỹ thuật theo hướng tách riêng thành hai tội là tội mua bán trái phép chất ma túy với mức hình phạt cao nhất là tử hình và tội tàng trữ, vận chuyển trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy với mức hình phạt cao nhất là tù chung thân. Bên cạnh đó, đối với mỗi tội danh còn duy trì hình phạt tử hình, nghiên cứu thiết kế khung hình phạt có quy định hình phạt tử hình theo hướng có tách riêng trường hợp áp dụng hình phạt tử hình và tù chung thân thành một khung độc lập với điều kiện chặt chẽ để hạn chế các trường áp dụng hình phạt tử hình.

Đây cũng là phương án được Ban soạn thảo chọn.


Lam Nguyên

Ý kiến bạn đọc